Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

Mùi lồn - Vô lối Hoàng Vũ Thuật

Hoàng Vũ Thuật

mùi

ở đâu đó rất xa vừa nhìn thấy vừa không nhìn thấy
nghe được sờ được

dòng thác nóng ran hai bờ đêm

nguyên bản cuộc sống vốn thế
cơn sốt bất thần run bần bật

có thể viêm nhiễm sau cuộc phẫu có thể mới ra đời đã biến mất
có thể từ trời cao đổ xuống từ dưới đất trồi lên

mằn mặn nhàn nhạt hương một loài
hoa không tên gọi

mùi mưa mùi nắng mùi gió mùi cáu bẩn mùi nguyên trinh
mùi kiệt quệ mùi phục sinh mùi mùa

mùi của mùi

29/12/2010

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt

MÙI LỒN!

ở nơi nào đó rất xa,
vừa nhìn thấy bóng ta bà vừa không.
nghe sờ được một dòng thác  nóng
hai bờ đêm cháy bỏng râm ran.
nguyên sơ cuộc sống trần gian
bất thần cơn sốt lan tràn bật run.
sau phẫu thuật nhiễm trùng có thể 
cái mới ra nhỏ bé đi tong.
từ trời đổ xuống khoảng không
từ  đất nảy nở một dòng trồi lên 
hương loài hoa chẳng có tên
mằn mặn nhạt nhạt mắm nêm quê nhà.
muì mưa nắng, mùi bùn sa
mùi trinh bạch, mùi thối tha…
mùi mùi!

Vỹ thanh:
Cuối cùng còn lai mùi tui (*)
Cái mùi vô lối mần đui mũi người!
(*) Tôi – tiếng Quảng Bình
Hà Nội ngày 4 – 1- 2016
Đ - H



Vô lối Giáng Vân

ĐƯỜNG GIÓ – VÔ LỐI CỦA GIÁNG VÂN – PHI THƠ CA
Đỗ Hoàng
Cách đây mấy thập kỷ những người làm thơ cố gắng chối bỏ những hình thức được lưu hành, họ quyết bức phá và tìm cách thể hiện sao cho khác tiền nhân. Đó là việc đáng khuyến khích. Nhưng qui luật xã hội hay tự nhiên thì mọi việc phát triển đều phải có tính kế thừa và phát huy. Những người tự xưng mình cách tân thơ không hiểu điều đó. Ngôn ngữ phương Đông và ngôn ngữ Việt đều là đơn âm, phát ra từ răng, gọi là xỉ âm, nên nói không có vần điệu, không có lối thì không thể nhớ được, làm thơ đã không vần không điệu, không có tứ lạ, tứ mới, không có một triết lý sâu sắc, viết như người nước ngoài học 3 tiết tiếng Việt rồi làm thơ Việt thì ai ngửi được. Không như ngôn ngữ Xlavơ và La tinh, Âu Mỹ… Mỗi từ của nó như là một khúc ca ngắn, nên thơ họ vần điệu có thể đặt xuống thư yếu.
   Rồi trào lưu làm thơ văn xuôi nảy nở khắp thế giới, khiến cho nhiều người có đất dụng võ cứ viết lung tung lang tang và gọi nó là thơ.
  Những người làm Vô Lối (chữ của Đỗ Hoàng) không chỉ phe nhóm mình tung hê mà được các cơ quan tư nhân và công quyền tung hê nên họ càng tin tưởng mình thiên tài mở ra một chân trời thi ca (!)
 Hàng loạt người làm Vô Lối từ thời miền Nam tạm bị chiếm như: Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Phú Trạm  - In na sa ra…miền Bắc như: Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, , Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Văn Cẩm Hải, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật… nẩy nở như nấm độc sau mưa!
  Giáng Vân cũng viết Vô Lối như các bậc đàn anh của mình như vì chưa thành danh nên Đỗ Hoàng tôi không muốn mất thì giờ.
  Nay xem thấy cái tập Đường Gió của Giáng Vân được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải, tôi cũng phải viết vài lời phản biện.
  Đường Gió là một tập viết phi thơ ca, Vô Lối toàn tòng, nó chối bỏ tất tật truyền thống cha ông. Nó là một một thứ quái thai không ra chuột không ra mèo. Nó ngô ngô ngọng ngọng, dở dơi dở chuột, khô khan đại hạn, cũ kỹ, giả cầy tây tàu, thừa lời thiếu chữ, thiếu lời, thừa chữ, thiếu chữ thừa lời, nhạt nhẽo vô nghĩa, gái già làm duyên không phải lối, xơ cứng, tù mù, tịt mịch, gượng gạo, vô cảm, lãnh cảm, sáo mòn, sáo rỗng, nhạt thếch, vô vị,  hô khẩu hiệu suông, biểu hiện rất kém văn hóa, kém từng trải…
 Trong 74 bài của Đường Gió, bài Lời của suối nguồn được đưa lên đầu tiên.  Đây là bài không có thang điểm nào mà cho, nó phản thơ ca một trăm phần trăm.
 Hãy chảy đi, chảy đi

Bởi vì ta cần mang cho
Bởi vì ta không khi nào cạn
Bởi vì ta không khi nào tính đếm…
Một con suối nhỏ nhoi ồn ào quá đáng. Loại suối cóc léo nhéo suốt đêm ngày làm người ta mất ngủ, còn:
Sông to không chảy ồn ào.
(Sa Di )
Nó thuộc loại thùng rỗng thì kêu to (ngạn ngữ)
 Một kẻ lên gân như con bọ ngựa đá nhau. Con Người vỹ đại như thế mà còn run sợ trước thiên nhiên. Sao con suối nhỏ như mắt muỗi dám cao ngạo mình không khi nào cạn?
Thi sỹ Tản Đà tài danh mới dám viết:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

 Người ta viết đầy hình ảnh lấp lánh, đa chiều, hàm súc. Đây Giáng Vân viết vừa thô thiển, vừa cạn cợt, vừa chủ quan:
Hãy chảy đi
Đừng hỏi nước khổi nguồn từ đâu?
Đừng hỏi Tình yêu khởi nguồn từ đâu

Chưa hết Giáng Vân  lại còn đại ngôn, sáo rỗng tiếp:
“Nước là tình yêu ta
Tình yêu là nước nên ta mãi mãi”

“Hãy chảy đi
Đừng bào giờ ngoảnh lại
Nước lên hương ban mai
Nước mát rượi ban trưa
Nước dịu dàng chiều hôm
Khi đêm về hư ảo

Hãy chảy đi..”
 Thôi miễn bàn nhưng lời đại ngôn có cánh.
Chùm Vô lối viết ở nước Lào vô cùng kém, không có một tí gì là mới, phát hiện mới, cũ càng cũ kỷ, cảm xúc, gượng gạo, triết lý vặt:
“Lặng im hát
Bài hát giữ cho những vẻ đẹp được sống
Đã được tạo tác như vậy.”
(Viết ở Viêng Chăn)
 Nhà thơ Phạm Tiến Duật – một cổ động viên cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng có những bài thơ về nước Lào hay:
“Ai nói Lào không có biển đừng tin
Tôi đã thấy biển Lào trong vùng giải phóng
Là khi đi giữa Sê pôn, Sê kông lổng lộng
Biển là em,
Thăm thẳm mắt em nhìn.”
 Đọc hết cả tập Đường Gió, tôi mới thấy kiểu viết Vô Lối phá nát văn chương. Giáng Vân có mấy bài viết về Mẹ và con là những bài Vô Lối nhạt nhẽo, cứng nhắc, đơn điệu vô cùng:
“Bên ngoài những định giới hạn hẹp
Mẹ về bên con bằng thứ ánh sáng xanh biếc vô hình
Niềm vui sáng dịu dàng khôn tả…”
(Thơ dâng Mẹ)
 Viết về Mẹ mà giống như thầy giáo dạy bài vật lý  “Ánh sáng truyền theo đường thẳng”
Giáng Vân không học ca dao tục ngữ sao:
“Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả Mẹ chín chiều ruột đau”
(Xin xem bài Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt phần sau)
 Trong một bài viết về mẹ “Thơ dâng Mẹ” rất đầu Ngô mình Sở, tiền hậu bất nhất.
“Mẹ đã hóa vào cao xanh kia
Cao sang và hư ảo

Đó là gương mặt thật của mẹ
Gương mặt của người mẹ vỹ đại đã sinh ra con
Tiếp đoạn sau lại rất thủ phận, người mẹ vỹ đại biến mất, chỉ còn:
“Bởi vì mẹ ơi mẹ con mình thật nhỏ bé
Chỉ như cái bòng côi cút trong cuộc đời”
Hai bài thơ viết cho con vừa sơ sài, vừa nhạt vừa lê thê. Không một rung động.
“Tôi ôm con gái tôi
Khi nó nhắm nghiền mắt và mơ
Trong cái thân hình ấm nóng và sống động
Nó tựa hẳn vào tôi tin tưởng.”
Câu dở hơn cả câu văn xuôi
(Thơ viết cho con)
Tiếp:
Con ơi
Có nhiều lúc mẹ rất nhăn nhó con không nhớ sao?
Đầy là những lúc con hư làm mẹ bực mình
Nhưng đây là vì mẹ lo cho con mẹ nhỉ.
(Trò chuyện với con)
Nói bộ dở thua một bà nông dân nói với con gái.


 Những cây bút đương đại hay né tránh những hiện thực đau đớn đè lên thân phận người phụ nữ. Họ bốc thơm người phụ nữ lên:
“Chị em ta tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời mà cũng nắng cho thơ.”
(Huy Cận)
Thực ra phụ nữ thời nào cũng là nạn nhân của quyền lực và đồng tiền. Phụ nữ dưới các chế độ độc tài, toàn trị lại càng đau khổ hơn.
 Trong văn chương cũ người ta đã lên án việc này rất mạnh mẽ:
Bộ binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi”
(Ca dao)
“Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”
(Ca dao)
“Trách móc làm chi chi
Ơi người là người ơi! Ơi chàng là chàng ơi
Sao tệ tệ rứa chàng
Sao bạc bạc rứa chàng!”
(Ca dao)
Rồi thì:
“Đẻ ra đứa con chẳng biết nó giống ai
Cái đầu thì ông xã, cái tai thì của ông trùm.
(Cao dao)
 Bây giờ:
Đẻ đứa con ra là biết nó giống ai
Cái đầu của bí thư chủ tịch, cái rái khoai của đảng đoàn…”
(Ca dao mới)
Hay:
 Đời thì Sở Khanh nhiều hơn rắn
Hệ lụy  bao nhiêu kiếp thân kiều
Trinh nữ làm sao mà lành lặn
Mỗi bước ma bầy kéo tiểu yêu!
(Đỗ Hoàng)

 Các cây bút nữ chỉ kêu gào nữ quyền, nhưng chỉ đòi hỏi quyền sex. Quyền sex cũng đáng đòi nhưng nó thứ yếu. Quyền lớn hơn là quyền làm mẹ, quyền nuôi con, quyền được lấy chồng, quyền có chồng, quyền được chồng chăm sóc. Người ta hiểu sai quyền làm mẹ là quyền thoải mái chửa hoang đẻ hoang, một mình người đàn bà phải chịu đựng nuôi con nuôi cái. Mà cái nữ quyền là phải đòi giống đực phải có trách nhiệm việc gây ra hậu quả cho người phụ nữ. Phải như con bò cạp, nếu giao hoan thì phải đổi cả tính mạng để làm nguồn thức ăn cho đứa con sơ sinh sắp ra đời.
 Giáng Vân đáng ra phải viết thay cho những người không chồng mà chửa mới ngoan thì sẽ thực hơn và xúc động hơn.
  Ngoài ra tác giả dùng tràn làn những từ Hán Việt chưa được việt hóa hoặc cũ mòn như: hoan ca, linh giác, an nhiên, thống khổ,  mê dụ, cô tịch, ngẫu cảm…
Những bài viết trước đây và tập Đường Gió là một cách viết hoàn toàn thật bại phi thơ ca.
   Không chỉ Hội Nhà văn Hà Nội mà Hội Nhà văn Việt Nam cũng liên tục trong nhiều thập kỷ qua cổ súy, lăng xê – trao giải cho những cách viết phi thơ ca như thế này. Đã có nhiều bài Vô Lối đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học, đó là việc vô cùng tai hại mà cần warninh - cảnh báo.
  Lấy tiền ngân sách – tiền thuế dân đóng hoặc là tiền tư nhân đi nữa cũng là có tội với người đọc và nhân dân!
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2013
Đ -H
Phụ lục:
Dịch thơ Việt ra thơ Việt:
Nguyên bản:
Ký ức mưa 
 (Giáng Vân)

Bao bọc ngôi nhà mẹ
Những cơn mưa dài hằng đêm
Vách đất nhà mình ẩm lạnh
Ếch kêu vang đồng ngoài

Chúng con ngủ
Mơ thấy những dòng sông mưa
Cùng cá tôm đi bơi lội
Đồng làng mênh mông

Bao bọc giấc mơ con
Gương mặt mẹ muộn phiền
Bàn tay có những ngó
Những sợi len hay những n dài xanh
Không ngừng đan, nối sợi mưa
Xuyên vào nhau thành áo ấm
Mà mẹ không có áo ấm bao giờ
Con còn nhỏ

Không biết mẹ ước gì
Chỉ thấy


Bao bọc đời chúng con
Mà sao mẹ nhỏ nhoi, yếu đuối
Những mùa mưa không tạnh
Đến giờ..

13-12-Bính Tuất
Ngày giỗ mẹ
 Đỗ Hoàng dịch:

NHỚ MƯA

Bao bọc ngôi nhà mẹ
Hằng đêm mưa kéo dài
Phên đất nhà mình lạnh
Ếch kêu vang đồng ngoài!

Lũ chúng con mê ngủ
Mơ những dòng sông mơ
Cùng cá tôm bơi lội
Đồng rộng không thấy bờ.

Bao bọc giấc mơ con
Gương mặt mẹ muộn phiền
Tay mẹ xanh từng ngón
Mẹ đan ngày nối đêm!

Sợi len như sợi mưa
Kết nhau thành áo ấm
Mẹ có ấm bao giờ
Con thì còn nhỏ lắm.

Không biết mẹ ước gì
Đêm mưa mẹ hay khóc
Bao bọc lũ con thơ
Mẹ nhỏ nhoi gầy gộc!

Những mùa mưa thấm lạnh
Mẹ ơi! Còn đến giờ!

Hà Nội ngày 19 – 11 -2013
                  Đ – H

Nếu Giáng Vân viết thay cho những người phụ nữ nạn nhân của giống đực thì sẽ được chị em và người đọc đồng tình hơn!

VIẾT CHO CON
(Viết hộ cho những người phụ nữ nhẹ dạ, bất hạnh)
*
Con à, con ạ!
Nước mắt mẹ sung sướng ướt cả dải yếm khi bồng con trên tay.
Con của mẹ bé bỏng nhường này.
Con đã hiện hữu cùng đất trời trong cõi vô cùng rộng lớn
Có con, bây giờ đời  mẹ không còn cô đơn trống rỗng.
Có con phòng mẹ rộng rinh sống động cả một bầu vũ trụ chứa trăng sao
Ôi cái má hồng đào
Thơm thơm mùi sữa.
Có con những ngày buồn thiu của mẹ không còn nữa.
Những ngày lạnh tanh đêm năm canh, ngày sáu khắc vò võ một thân mình.
Những ánh mắt soi mói như kim xuyên qua da thịt của mẹ xuyên qua con tim.
Người ta nói bóng nói gió rằng con là đứa bé không có ai thừa nhận
Là đứa con hoang như chó hoang ngoài đồng cuộc đời sẽ vô vàn bất hạnh.
Mẹ đau suốt tháng ngày mang thai!

Con à, con ạ.
Cha con là những người đàn ông đại tài
Họ vô cùng đẹp trai
Như cầu thủ bóng đá Platini của Pháp
Họ giàu như ông Binget
Làm chính trị gia như Obama
Làm thơ giỏi như Lý Bạch, Lok ca
Con đã thừa hưởng tất cả các gien tài năng vỹ đại
Cho con tất để làm nên phận gái.

*
Nhưng con ơi!
Mẹ đâu ngờ
Cái giống đực loài nào cũng thế
Nó vô cùng bạc tình, bạc nghĩa.
Nó đánh trống bỏ dùi
Nó mất hút tăm hơi.
Cái giống đực con người thì nó vô cùng tệ bạc.
Nhất là những thắng có chức tước quyền lực.
Nó biến đàn bà thành thú chơi trăng hoa.
Bao nhiêu cô con gái tan cửa nát nhà
Mà không sao vùng vẫy.

Hàng ngày,
Nó cũng vào ra nơi cơ quan mẹ đấy
Nhưng nó làm như không bao giờ nhìn thấy đứa con của nó đang lớn dần.
Nó không có một ánh nhìn thiết thân
Cái ánh nhìn mà nó từng vung ra để chiếm đoạt mẹ.
Ôi cái giống đực, loài nào cũng tệ.

Con à, con ạ!
Đàn bà cạn lòng như đĩa
Đàn ông bạc nghĩa như vôi.
Ông ngoại từng dạy mẹ rồi
Đi đêm với đàn ông thì phải buộc lưng quần cho chặt.
Mẹ luôn ghi nhớ và nghe lời khi mẹ đã là con gái hồng hào sắc mặt.
Nhưng con ơi.
Làm ở cơ quan đâu chỉ có đi một đêm
Đi nghìn đêm
Lần ấy thì mẹ không mặc quần.
Khổ thân mẹ, mẹ mặc váy.
Cơ sự ra như thế ấy.

*
Nhưng mẹ còn may hơn ngàn lần bà ngoại.
Bà ngoại chửa hoang, ông ngoại phải mổ lợn tạ làng.
Họ bắt bà lột hết quần áo dông khắp chợ thôn hết dọc đến ngang.
Sai mõ đào lỗ vừa bỏ bụng thai vào nằm sấp cho hương vệ thi nhau đánh.
Bà con xóm chòm, làng nước gặp ai họ cũng xa lánh
Sợ người chửa hoang như sợ người bị hủi.
Cả một cuộc đời buồn tủi
Bà ngoại đã nuôi mẹ lớn lên như vầy.

*

Cuộc đời bây giờ đã đổi khác nhiều thay.
Người con gái có quyền làm mẹ.
Nhưng con ơi, sự đời không chỉ thế
Sau này lớn lên con mới biết người con gái có quyền lấy chồng
Người con gái có quyền bắt đàn ông chăm sóc vợ con.
Người đàn ông không được bỏ của chạy lấy người
Người phụ nữ có quyền bắt có trách nhiệm với cuộc đời.

*

Con à con ơi!
Mẹ biết con thiếu tình thương của cha.
Tình thương của ông bà.
Tình thương cha như núi non cao rộng
Tình thương ông bà như biển đông điệp trùng ngọn sóng.
Vô biên vô cùng.
Con thiếu hụt tình thương ấy như đồng quê thiếu những con sông
Như mái nhà thiếu đi tranh lợp
Như con người chỉ đi một bước.
Vì thế mẹ thương con nhường này!

*
Con lớn lên
Xã hội càng đổi thay
Con thay mẹ đòi cho bằng được cái quyền mẹ
Và cái quyền được lấy chồng
Quyền trói buộc đàn ông
Tuân phục nữ quyền muôn thuở.

*
Mẹ mong cái ngày ấy không xa nữa
Khi con của mẹ lớn lên.
Con à, con ơi!

Hà Nội, ngày 25 – 11 -2013
Đ - H


 


Vô lối Giáng Vân

ĐƯỜNG GIÓ – VÔ LỐI CỦA GIÁNG VÂN – PHI THƠ CA
Đỗ Hoàng
Cách đây mấy thập kỷ những người làm thơ cố gắng chối bỏ những hình thức được lưu hành, họ quyết bức phá và tìm cách thể hiện sao cho khác tiền nhân. Đó là việc đáng khuyến khích. Nhưng qui luật xã hội hay tự nhiên thì mọi việc phát triển đều phải có tính kế thừa và phát huy. Những người tự xưng mình cách tân thơ không hiểu điều đó. Ngôn ngữ phương Đông và ngôn ngữ Việt đều là đơn âm, phát ra từ răng, gọi là xỉ âm, nên nói không có vần điệu, không có lối thì không thể nhớ được, làm thơ đã không vần không điệu, không có tứ lạ, tứ mới, không có một triết lý sâu sắc, viết như người nước ngoài học 3 tiết tiếng Việt rồi làm thơ Việt thì ai ngửi được. Không như ngôn ngữ Xlavơ và La tinh, Âu Mỹ… Mỗi từ của nó như là một khúc ca ngắn, nên thơ họ vần điệu có thể đặt xuống thư yếu.
   Rồi trào lưu làm thơ văn xuôi nảy nở khắp thế giới, khiến cho nhiều người có đất dụng võ cứ viết lung tung lang tang và gọi nó là thơ.
  Những người làm Vô Lối (chữ của Đỗ Hoàng) không chỉ phe nhóm mình tung hê mà được các cơ quan tư nhân và công quyền tung hê nên họ càng tin tưởng mình thiên tài mở ra một chân trời thi ca (!)
 Hàng loạt người làm Vô Lối từ thời miền Nam tạm bị chiếm như: Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Phú Trạm  - In na sa ra…miền Bắc như: Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, , Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Văn Cẩm Hải, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật… nẩy nở như nấm độc sau mưa!
  Giáng Vân cũng viết Vô Lối như các bậc đàn anh của mình như vì chưa thành danh nên Đỗ Hoàng tôi không muốn mất thì giờ.
  Nay xem thấy cái tập Đường Gió của Giáng Vân được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải, tôi cũng phải viết vài lời phản biện.
  Đường Gió là một tập viết phi thơ ca, Vô Lối toàn tòng, nó chối bỏ tất tật truyền thống cha ông. Nó là một một thứ quái thai không ra chuột không ra mèo. Nó ngô ngô ngọng ngọng, dở dơi dở chuột, khô khan đại hạn, cũ kỹ, giả cầy tây tàu, thừa lời thiếu chữ, thiếu lời, thừa chữ, thiếu chữ thừa lời, nhạt nhẽo vô nghĩa, gái già làm duyên không phải lối, xơ cứng, tù mù, tịt mịch, gượng gạo, vô cảm, lãnh cảm, sáo mòn, sáo rỗng, nhạt thếch, vô vị,  hô khẩu hiệu suông, biểu hiện rất kém văn hóa, kém từng trải…
 Trong 74 bài của Đường Gió, bài Lời của suối nguồn được đưa lên đầu tiên.  Đây là bài không có thang điểm nào mà cho, nó phản thơ ca một trăm phần trăm.
 Hãy chảy đi, chảy đi

Bởi vì ta cần mang cho
Bởi vì ta không khi nào cạn
Bởi vì ta không khi nào tính đếm…
Một con suối nhỏ nhoi ồn ào quá đáng. Loại suối cóc léo nhéo suốt đêm ngày làm người ta mất ngủ, còn:
Sông to không chảy ồn ào.
(Sa Di )
Nó thuộc loại thùng rỗng thì kêu to (ngạn ngữ)
 Một kẻ lên gân như con bọ ngựa đá nhau. Con Người vỹ đại như thế mà còn run sợ trước thiên nhiên. Sao con suối nhỏ như mắt muỗi dám cao ngạo mình không khi nào cạn?
Thi sỹ Tản Đà tài danh mới dám viết:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

 Người ta viết đầy hình ảnh lấp lánh, đa chiều, hàm súc. Đây Giáng Vân viết vừa thô thiển, vừa cạn cợt, vừa chủ quan:
Hãy chảy đi
Đừng hỏi nước khổi nguồn từ đâu?
Đừng hỏi Tình yêu khởi nguồn từ đâu

Chưa hết Giáng Vân  lại còn đại ngôn, sáo rỗng tiếp:
“Nước là tình yêu ta
Tình yêu là nước nên ta mãi mãi”

“Hãy chảy đi
Đừng bào giờ ngoảnh lại
Nước lên hương ban mai
Nước mát rượi ban trưa
Nước dịu dàng chiều hôm
Khi đêm về hư ảo

Hãy chảy đi..”
 Thôi miễn bàn nhưng lời đại ngôn có cánh.
Chùm Vô lối viết ở nước Lào vô cùng kém, không có một tí gì là mới, phát hiện mới, cũ càng cũ kỷ, cảm xúc, gượng gạo, triết lý vặt:
“Lặng im hát
Bài hát giữ cho những vẻ đẹp được sống
Đã được tạo tác như vậy.”
(Viết ở Viêng Chăn)
 Nhà thơ Phạm Tiến Duật – một cổ động viên cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng có những bài thơ về nước Lào hay:
“Ai nói Lào không có biển đừng tin
Tôi đã thấy biển Lào trong vùng giải phóng
Là khi đi giữa Sê pôn, Sê kông lổng lộng
Biển là em,
Thăm thẳm mắt em nhìn.”
 Đọc hết cả tập Đường Gió, tôi mới thấy kiểu viết Vô Lối phá nát văn chương. Giáng Vân có mấy bài viết về Mẹ và con là những bài Vô Lối nhạt nhẽo, cứng nhắc, đơn điệu vô cùng:
“Bên ngoài những định giới hạn hẹp
Mẹ về bên con bằng thứ ánh sáng xanh biếc vô hình
Niềm vui sáng dịu dàng khôn tả…”
(Thơ dâng Mẹ)
 Viết về Mẹ mà giống như thầy giáo dạy bài vật lý  “Ánh sáng truyền theo đường thẳng”
Giáng Vân không học ca dao tục ngữ sao:
“Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả Mẹ chín chiều ruột đau”
(Xin xem bài Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt phần sau)
 Trong một bài viết về mẹ “Thơ dâng Mẹ” rất đầu Ngô mình Sở, tiền hậu bất nhất.
“Mẹ đã hóa vào cao xanh kia
Cao sang và hư ảo

Đó là gương mặt thật của mẹ
Gương mặt của người mẹ vỹ đại đã sinh ra con
Tiếp đoạn sau lại rất thủ phận, người mẹ vỹ đại biến mất, chỉ còn:
“Bởi vì mẹ ơi mẹ con mình thật nhỏ bé
Chỉ như cái bòng côi cút trong cuộc đời”
Hai bài thơ viết cho con vừa sơ sài, vừa nhạt vừa lê thê. Không một rung động.
“Tôi ôm con gái tôi
Khi nó nhắm nghiền mắt và mơ
Trong cái thân hình ấm nóng và sống động
Nó tựa hẳn vào tôi tin tưởng.”
Câu dở hơn cả câu văn xuôi
(Thơ viết cho con)
Tiếp:
Con ơi
Có nhiều lúc mẹ rất nhăn nhó con không nhớ sao?
Đầy là những lúc con hư làm mẹ bực mình
Nhưng đây là vì mẹ lo cho con mẹ nhỉ.
(Trò chuyện với con)
Nói bộ dở thua một bà nông dân nói với con gái.


 Những cây bút đương đại hay né tránh những hiện thực đau đớn đè lên thân phận người phụ nữ. Họ bốc thơm người phụ nữ lên:
“Chị em ta tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời mà cũng nắng cho thơ.”
(Huy Cận)
Thực ra phụ nữ thời nào cũng là nạn nhân của quyền lực và đồng tiền. Phụ nữ dưới các chế độ độc tài, toàn trị lại càng đau khổ hơn.
 Trong văn chương cũ người ta đã lên án việc này rất mạnh mẽ:
Bộ binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi”
(Ca dao)
“Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”
(Ca dao)
“Trách móc làm chi chi
Ơi người là người ơi! Ơi chàng là chàng ơi
Sao tệ tệ rứa chàng
Sao bạc bạc rứa chàng!”
(Ca dao)
Rồi thì:
“Đẻ ra đứa con chẳng biết nó giống ai
Cái đầu thì ông xã, cái tai thì của ông trùm.
(Cao dao)
 Bây giờ:
Đẻ đứa con ra là biết nó giống ai
Cái đầu của bí thư chủ tịch, cái rái khoai của đảng đoàn…”
(Ca dao mới)
Hay:
 Đời thì Sở Khanh nhiều hơn rắn
Hệ lụy  bao nhiêu kiếp thân kiều
Trinh nữ làm sao mà lành lặn
Mỗi bước ma bầy kéo tiểu yêu!
(Đỗ Hoàng)

 Các cây bút nữ chỉ kêu gào nữ quyền, nhưng chỉ đòi hỏi quyền sex. Quyền sex cũng đáng đòi nhưng nó thứ yếu. Quyền lớn hơn là quyền làm mẹ, quyền nuôi con, quyền được lấy chồng, quyền có chồng, quyền được chồng chăm sóc. Người ta hiểu sai quyền làm mẹ là quyền thoải mái chửa hoang đẻ hoang, một mình người đàn bà phải chịu đựng nuôi con nuôi cái. Mà cái nữ quyền là phải đòi giống đực phải có trách nhiệm việc gây ra hậu quả cho người phụ nữ. Phải như con bò cạp, nếu giao hoan thì phải đổi cả tính mạng để làm nguồn thức ăn cho đứa con sơ sinh sắp ra đời.
 Giáng Vân đáng ra phải viết thay cho những người không chồng mà chửa mới ngoan thì sẽ thực hơn và xúc động hơn.
  Ngoài ra tác giả dùng tràn làn những từ Hán Việt chưa được việt hóa hoặc cũ mòn như: hoan ca, linh giác, an nhiên, thống khổ,  mê dụ, cô tịch, ngẫu cảm…
Những bài viết trước đây và tập Đường Gió là một cách viết hoàn toàn thật bại phi thơ ca.
   Không chỉ Hội Nhà văn Hà Nội mà Hội Nhà văn Việt Nam cũng liên tục trong nhiều thập kỷ qua cổ súy, lăng xê – trao giải cho những cách viết phi thơ ca như thế này. Đã có nhiều bài Vô Lối đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học, đó là việc vô cùng tai hại mà cần warninh - cảnh báo.
  Lấy tiền ngân sách – tiền thuế dân đóng hoặc là tiền tư nhân đi nữa cũng là có tội với người đọc và nhân dân!
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2013
Đ -H
Phụ lục:
Dịch thơ Việt ra thơ Việt:
Nguyên bản:
Ký ức mưa 
 (Giáng Vân)

Bao bọc ngôi nhà mẹ
Những cơn mưa dài hằng đêm
Vách đất nhà mình ẩm lạnh
Ếch kêu vang đồng ngoài

Chúng con ngủ
Mơ thấy những dòng sông mưa
Cùng cá tôm đi bơi lội
Đồng làng mênh mông

Bao bọc giấc mơ con
Gương mặt mẹ muộn phiền
Bàn tay có những ngó
Những sợi len hay những n dài xanh
Không ngừng đan, nối sợi mưa
Xuyên vào nhau thành áo ấm
Mà mẹ không có áo ấm bao giờ
Con còn nhỏ

Không biết mẹ ước gì
Chỉ thấy


Bao bọc đời chúng con
Mà sao mẹ nhỏ nhoi, yếu đuối
Những mùa mưa không tạnh
Đến giờ..

13-12-Bính Tuất
Ngày giỗ mẹ
 Đỗ Hoàng dịch:

NHỚ MƯA

Bao bọc ngôi nhà mẹ
Hằng đêm mưa kéo dài
Phên đất nhà mình lạnh
Ếch kêu vang đồng ngoài!

Lũ chúng con mê ngủ
Mơ những dòng sông mơ
Cùng cá tôm bơi lội
Đồng rộng không thấy bờ.

Bao bọc giấc mơ con
Gương mặt mẹ muộn phiền
Tay mẹ xanh từng ngón
Mẹ đan ngày nối đêm!

Sợi len như sợi mưa
Kết nhau thành áo ấm
Mẹ có ấm bao giờ
Con thì còn nhỏ lắm.

Không biết mẹ ước gì
Đêm mưa mẹ hay khóc
Bao bọc lũ con thơ
Mẹ nhỏ nhoi gầy gộc!

Những mùa mưa thấm lạnh
Mẹ ơi! Còn đến giờ!

Hà Nội ngày 19 – 11 -2013
                  Đ – H

Nếu Giáng Vân viết thay cho những người phụ nữ nạn nhân của giống đực thì sẽ được chị em và người đọc đồng tình hơn!

VIẾT CHO CON
(Viết hộ cho những người phụ nữ nhẹ dạ, bất hạnh)
*
Con à, con ạ!
Nước mắt mẹ sung sướng ướt cả dải yếm khi bồng con trên tay.
Con của mẹ bé bỏng nhường này.
Con đã hiện hữu cùng đất trời trong cõi vô cùng rộng lớn
Có con, bây giờ đời  mẹ không còn cô đơn trống rỗng.
Có con phòng mẹ rộng rinh sống động cả một bầu vũ trụ chứa trăng sao
Ôi cái má hồng đào
Thơm thơm mùi sữa.
Có con những ngày buồn thiu của mẹ không còn nữa.
Những ngày lạnh tanh đêm năm canh, ngày sáu khắc vò võ một thân mình.
Những ánh mắt soi mói như kim xuyên qua da thịt của mẹ xuyên qua con tim.
Người ta nói bóng nói gió rằng con là đứa bé không có ai thừa nhận
Là đứa con hoang như chó hoang ngoài đồng cuộc đời sẽ vô vàn bất hạnh.
Mẹ đau suốt tháng ngày mang thai!

Con à, con ạ.
Cha con là những người đàn ông đại tài
Họ vô cùng đẹp trai
Như cầu thủ bóng đá Platini của Pháp
Họ giàu như ông Binget
Làm chính trị gia như Obama
Làm thơ giỏi như Lý Bạch, Lok ca
Con đã thừa hưởng tất cả các gien tài năng vỹ đại
Cho con tất để làm nên phận gái.

*
Nhưng con ơi!
Mẹ đâu ngờ
Cái giống đực loài nào cũng thế
Nó vô cùng bạc tình, bạc nghĩa.
Nó đánh trống bỏ dùi
Nó mất hút tăm hơi.
Cái giống đực con người thì nó vô cùng tệ bạc.
Nhất là những thắng có chức tước quyền lực.
Nó biến đàn bà thành thú chơi trăng hoa.
Bao nhiêu cô con gái tan cửa nát nhà
Mà không sao vùng vẫy.

Hàng ngày,
Nó cũng vào ra nơi cơ quan mẹ đấy
Nhưng nó làm như không bao giờ nhìn thấy đứa con của nó đang lớn dần.
Nó không có một ánh nhìn thiết thân
Cái ánh nhìn mà nó từng vung ra để chiếm đoạt mẹ.
Ôi cái giống đực, loài nào cũng tệ.

Con à, con ạ!
Đàn bà cạn lòng như đĩa
Đàn ông bạc nghĩa như vôi.
Ông ngoại từng dạy mẹ rồi
Đi đêm với đàn ông thì phải buộc lưng quần cho chặt.
Mẹ luôn ghi nhớ và nghe lời khi mẹ đã là con gái hồng hào sắc mặt.
Nhưng con ơi.
Làm ở cơ quan đâu chỉ có đi một đêm
Đi nghìn đêm
Lần ấy thì mẹ không mặc quần.
Khổ thân mẹ, mẹ mặc váy.
Cơ sự ra như thế ấy.

*
Nhưng mẹ còn may hơn ngàn lần bà ngoại.
Bà ngoại chửa hoang, ông ngoại phải mổ lợn tạ làng.
Họ bắt bà lột hết quần áo dông khắp chợ thôn hết dọc đến ngang.
Sai mõ đào lỗ vừa bỏ bụng thai vào nằm sấp cho hương vệ thi nhau đánh.
Bà con xóm chòm, làng nước gặp ai họ cũng xa lánh
Sợ người chửa hoang như sợ người bị hủi.
Cả một cuộc đời buồn tủi
Bà ngoại đã nuôi mẹ lớn lên như vầy.

*

Cuộc đời bây giờ đã đổi khác nhiều thay.
Người con gái có quyền làm mẹ.
Nhưng con ơi, sự đời không chỉ thế
Sau này lớn lên con mới biết người con gái có quyền lấy chồng
Người con gái có quyền bắt đàn ông chăm sóc vợ con.
Người đàn ông không được bỏ của chạy lấy người
Người phụ nữ có quyền bắt có trách nhiệm với cuộc đời.

*

Con à con ơi!
Mẹ biết con thiếu tình thương của cha.
Tình thương của ông bà.
Tình thương cha như núi non cao rộng
Tình thương ông bà như biển đông điệp trùng ngọn sóng.
Vô biên vô cùng.
Con thiếu hụt tình thương ấy như đồng quê thiếu những con sông
Như mái nhà thiếu đi tranh lợp
Như con người chỉ đi một bước.
Vì thế mẹ thương con nhường này!

*
Con lớn lên
Xã hội càng đổi thay
Con thay mẹ đòi cho bằng được cái quyền mẹ
Và cái quyền được lấy chồng
Quyền trói buộc đàn ông
Tuân phục nữ quyền muôn thuở.

*
Mẹ mong cái ngày ấy không xa nữa
Khi con của mẹ lớn lên.
Con à, con ơi!

Hà Nội, ngày 25 – 11 -2013
Đ - H


 


Vô lối Dư Thị Hoàn

Dư Thi Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt
Thứ sáu - 24/10/2014 13:32

Lts:
      Chưa bao giờ trong cõi Việt sau thời hậu chiến nồi da xáo thịt tang thương cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI lại xuất hiện một kiểu viết Vô lối phi văn chương, dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm vô tâm vô tình như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thòng kể lể báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô khan như Nguyễn Khoa Điềm, ngô ngọng giả cầy quái gỡ đau ghẻ như Trạm In ra sa ra, tù mù hời hợt uốn éo nông cạn sơ sài như Nguyễn Bình Phương, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật và dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…
                               
 

DƯ THỊ HOÀN VÔ LỐI NHỎ - KHÔNG BIẾT LÀM THƠ TIẾNG VIỆT

                                                      Đỗ Hoàng

       Nhà thơ Dự Thị Hoàn thuộc dân tộc thiểu số, người Hoa lấy chồng Việt cư ngụ ở Hải Phòng có con trai đã vào đại học nhưng đến năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước tiếng Việt còn bập bẹ. Nhiều người nói tặng chị một đôi ngọc hành chị vẫn vô tư mỉm cười vui vẻ, cứ tưởng ngọc hành là ngọc bích đeo trên cổ Từ Hy Thái Hậu(!). Sau đợt seminar thơ chị ở khóa IV trường viết văn Nguyễn Du là chị bỏ về đi buôn luôn. Từ ấy đến nay chắc chị đã bỏ hẳn văn chương.vì không thấy chị xuất hiện ở đâu.
  Thỉnh thoảng có mấy nhà phê bình mậu dịch nhắc chị như là hiện tượng thơ nữ thập kỷ 90 nên tôi cũng viết vài lời phản biện!
   Những năm ấy chị ra tập thơ Lối nhỏ và tốn không ít giấy mực ngợi ca chị. Nói cho đúng đó là tập VÔ LỐI NHỎ. Thơ chị rành là Vô lối, nói năng lung tung, tư duy lung tung lang tang, không đầu, không đũa. Xét về mặt thi pháp nghệ thuật thơ thì hầu như chị không biết gì về thơ Việt, tâm lý thưởng thức văn chương, tâm lý tình cảm của người Việt.
  Điển hình là những bài khóc của chị. Tôi đã viết về chị với chuyên luân “ Những phác thảo thơ Dư Thị Hoàn” in trong “Tâm cảm gửi cho đời” – Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2011
  Chị viết bài khóc Nguyễn Tuân, có nhà thơ Vũ Hiển trong ceminer phê bình là: “Đem bài khóc Nguyễn Tuân đặt khóc Nguyên Ngọc thì cũng không sao. Nguyên Ngọc ngồi nghe dưới lớp mặt đỏ như gà chọi phải gượng cười vì chắc cũng thuộc phái lăng xê Dư Thị Hoàn.
    Rồi bài “Mười năm tiếng khóc”- bài này nói về nỗi đau của những người Trung Quốc sống lâu đời trên đất Việt phải hồi hương do thế lực chính trị lúc bấy giờ bất hòa với nhau. Nỗi đau của người mẹ ra đi, người con ở lại, nỗi đâu không được thắp hương lên bàn thờ tổ tiên, nỗi đau chia ly, xa cách là có thật. Chỉ có nhà thơ diễn nó ra là không thật, không phải thơ ca người Việt. Nói thẳng ra là rất kém thi pháp!
“khóc cho hết hơi
khóc cho trời sập
khóc cho cột điện đổ
khóc cho tà vẹc vỡ trôi
khóc cho còi tàu im bặt
khóc cho bàn tay lái rời bỏ vô lăng
khóc cho đoàn tàu không dám lăn bánh…”
….
(Mười năm tiếng khóc  – Lối nhỏ)
  Hơn bảy câu có chữ khóc như dù là khóc thật nhưng chẳng có ai rơi một giọt nước mắt.
  Trong khi ca dao Việt không dùng một chữ khóc nào mà muôn đời nghe vẫn rưng rưng:
“Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chin chiều ruột đau!
(Ca dao Việt)
 Rồi bài “Đi lễ chùa” rất được nhiều nhà phê bình mậu dịch thổi kèn ngược khen nức nở: “Trong bài thơ trên, bốn nỗi đau lớn được bốn người đàn bà đặt ra như bốn câu hỏi đang chờ lời giải đáp của mỗi độc giả. Bốn nỗi đau mang bốn gương mặt khác nhau, bốn số phận khác nhau. Bài thơ đặt ra những ý tưởng ở  ngoài lời thơ  những vấn đáp ở ngoài câu thơ khiến người đọc phải nội suy cái hàm nghĩa mà nhà thơ đã đặt ra…” ((Thi Hoàng & Dư Thị Hoàn – cấu trúc hiện đại với dấu ấn phương Đông – Nguyễn Việt Chiến.)
Đây là bài Vô lối dở hơn cả nói bộ văn xuôi
“Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/ Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ - Câu này là một câu kể văn xuối tuy đúng nhưng rất dở vì chẳng có thông tin gì mới.
Cùng câu kể đi lễ chùa, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp đã nâng lên thành thi tứ bất tử:
“Sáng nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương”
 Nó đầy chất nhạc, tính họa, tính thơ, và rất dạt dào. Còn hai câu kể của Dư Thị Hoàn thì khô như ngói, vô tinh vô cảm!
Câu tiếp: Người thứ nhất thở dài:
 “Tội nghiệp nhất là người đàn bà không chồng”.
 Có thật thế không? Chưa hẳn đúng!
Thời hiện đại phụ nữ không lấy chồng chỉ thích độc thân thì sao? Ngay cả thời xưa người ta coi gái có chồng cũng là cái nợ nần:
 “Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời gì đây
Mỗi người mỗi nợ cầm tay
Đời xưa nợ ít, đời nay nợ nhiều”
(Ca dao Việt)
 Câu thứ tiếp:
Người thứ hai chép miệng:
Vô phúc nhất là người đàn bà không con
Câu này cũng không đúng với người phụ nữ Việt chứ chưa nói người đàn bà Châu Âu họ không muốn đẻ con.
Người Việt coi chồng là cái nợ rồi, nhưng cói con cũng là cái nợ tiếp theo, nếu như con bị trọng tôi, phản quốc thì càng nợ hơn nữa.
“Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm!
(Cao dao Việt)
 Và tiếp các câu sau đều là nhưng câu nói cố làm ra vẻ triết lý vặt nhưng cái thì không chính xác, cái thì sai hoàn toàn
 Việc Dư Thị Hoàn chẻ từng số phận người phụ nữ để nói về từng nỗi đau một là việc làm không nên. Vì nói và kể như thế vừa không đúng, không chính xác, vừa không thể nào kể hết.
Nói về nỗi đau của phụ nữ Thanh Tâm Tài Tử đã nói từ ngàn xưa:
(Nhân sinh nử tử thị tối khổ
Nử tử tối khổ thị kỷ thân”
(Kim Vân Kiều truyện)
Nghĩa là:
Trong cõi thế này người nữ là khổ nhất
Trong giới nữ khổ nhất là kẻ làm đĩ”
Nguyễn Du đã dịch rất hay:
“Đau dớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Đoạn trường tân thanh)

Nhiều người khen đứt lưỡi thơ Dư Thị Hoàn bài “Êm đềm trên ghế đá”, nào là hậu hiện đại, là đại cách tân làm mới thơ Việt, nhưng thật ra đó là một bài bẩn thỉu nhất, dung tục nhất của những kẻ du thủ, du thực :anh du côn tám thẹo, gặp chị điếm giang hồ bày da, những anh chị lấy ghế đá làm giường hành lạc, lấy công viên, mặt phố làm phòng ngủ giao hoan!
 Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài khuy áo ngực của em
(Êm đềm trên ghế đá)
 Dù cho là ghế đá của nhà mình đi nữa, chưa nói ghế đá công viên và hè phố  thì việc lẹo (giao hợp) nhau như các chú cầy đen cầy trắng nhảy tơ lấy đâu tử tế, lịch sự cài khuy áo cho giống cái sau “một phú huy hoàng rồi chập tối”!
  Có người biện bác thời ấy các thành phố nhà cửa chật chội, các đôi vợ chồng phải đưa nhau ra công viên làm tình. Việc ấy trong có thể có thật, nhưng trong thi ca thì không nên khái quát nó như vậy đem ra làm bài học đạo đức phê phán giống đực!.
Cha ông ta nói bằng thơ mà nói hay hơn nhiều:
“Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”
(Ca dao)
  Mà theo bài viết trên là đôi trai gái mới yêu nhau. Thời hiện đại yêu nhau học có thể sống thử như vợ chồng. Nhưng giao hoan trên ghế đá công viên thì chỉ có loài lục súc. Không thể khen và lăng xê những cách viết bẩn thỉu như thế này được!
  Sống buông thả, lục súc như trên thì người Việt cũng đã nói và viết lâu rồi. Người ta nói bằng thơ và hay hơn nhiều, kín đáo hơn nhiều:
“Chơi cho thủng trống, long chiêng
Rồi ta sẽ lấy lập nghiêm làm chồng
Chơi cho thủng trống ta bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm”
(Ca dao Việt)
 Dư Thị Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt. Tuy không vô lối  dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thong gượng gạo báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô không khốc như Nguyễn Khoa Điềm, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật và dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…nhưng cũng thuộc loại Vô lối nhỏ!
 Thơ Vô lối thua vạn lần các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài.
 Nhà thơ  hiện đại Pháp Saint John Perse, giải Nobel năm 1960 người chuyên viết về vũ trụ không gian nhưng vẫn gắn với đời thường. Thơ ông là những mảng phiêu diêu nhưng thường dùng những điệp vần và những khúc văn xuôi có nhịp điệu, có chất nhạc nội tâm.
Ngay cả  Rene Char nhà thơ Pháp hậu hiện đại nhưng rất chuẩn nhạc điệu:
Chasseur rival tu n’a rien appris
Toi qui sans hâte me  dépasses
Dans le mort que je con tredis’
(Oh la toujouis plus rose solitude)
Đỗ Hoàng tạm dịch:
Hỡi ông đối thủ đi săn, ông chẳng được gì?
Ông đừng tất bật vượt qua mặt tôi
Sự chết chóc tôi thường phủ nhận
Ôi nỗi buồn luôn mãi hồng tươi!
  Dư Thị Hoàn đã đi vào cõi quên lãng hai mươi, ba mươi năm nay, không ai còn nhắc nữa.
 Đang ra thì không nên viết nhưng tôi có vài lời để thưa với độc giả là bây giờ nhiều tổ chức cả tư nhân cả công quyên lăng xê nhiều sản phẩm phi văn chương và vừa lăng xê lại Dư Thị Hoàn nên phải đành lên tiếng!
 Thiết nghĩ các nhà thơ dân tộc thiểu số tiếng Việt còn nói ngọng như Phú Trạm Innasara, Dư Thị Hoàn, Y Phương...  thì làm sao là người cách tân thơ Việt được. Quả là khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt!

                                   Hà Nội, ngày 23 tháng 10 năm 2014
                                                            Đ - H

Chị Hường

CHUYỆN NHẶT
CHỊ HƯỜNG
Đỗ Hoàng
  Cuối tháng 3 vừa rồi (2016), chị Hường con dì ruột của tôi gọi điện ra báo tin anh Phong chồng chị sắp giập năm (giỗ đầu) bảo tôi về dự đám giỗ. Chị kể những kỷ niệm ấu thơ ngày chiến tranh bị bom đạn Mỹ giữa mấy chị em bà con dì làm tôi bồi hồi thương cảm! Các chị bên cậu ruột (anh mẹ) tôi, tôi có kể một vài người trong CHUYỆN NHẶT, như chị Gian, chị Hiên.. Các chị ấy người có bố đi linh Pháp, người bố mất tích không rõ lý do nên các chị đều không được đi học ngành nghề nào. Các chị là con nhà có của ăn của để trước đây, tuy không sắc nước hương trời nhưng mấy cha cán bộ nhìn cũng ngon mắt, các chị ở trong tầm ngắm của bọn chúng. Cuộc đời buồn, các chị cứ luẩn quẩn trong làng làm ruộng và hoạt động các đoàn thể vặt rồi lấy chồng, rồi các chị bị mấy cha bí thư, đội trưởng, chủ nhiệm cậy thế hảm hiếp! Nhiều chị bắt chồng “sao sáo nuôi con o ho (tu hú)”. Các chị bên con dì, tôi chưa kể người nào.
   Chị Hường con dì ruột tôi là thành phần cơ bản,  bần cố nông thứ thiệt nên được đi học sư phạm ra dạy cấp 1. Chị vào được Đảng. Hồi ấy vào Đảng là một sự kiện của dòng họ.  Không chỉ họ Tống bên bố chị tự hào mà họ Hoàng bên mẹ tôi cũng tự hào. Mẹ tôi là cán bộ tiền khởi nghĩa nên úy lạo chị Hường lắm. Mẹ nói: “ Con cấy (gái) phải xông pha ra xã hội. Nam nữ bình quyền”. Vào được Đảng, chị Hường được đề bạt Phó Phòng Giáo dục phụ trách Mầm non của huyện. Chánh phó chủ tịch huyện đến nơi rồi! Tương lai thật sáng lạn! Ôi!
  Nhưng chạy trời không khỏi nắng. Dì Tằm (mẹ đẻ của chị, gọi theo tên con đầu) thời con gái chửa hoang. Dì hoạt hộng hội tề hôi tịch gì đó đi đêm đi hôm bị thằngLý Thấu nó làm cho có chửa. Thế là làng bắt vạ. Ông ngoại tôi phải bán trâu bò, ruộng nương để đền vạ làng. Giượng Tằm (chồng dì Tằm) là một anh cùng đinh không lấy nổi vợ, ông ngoại tôi cho không dì. Dì giượng sinh được 4 người con gái : Tằm, Miêu, Kén, Hường. Chị Hường là con út được học hành tử tế và làm nên danh giá như trên!
  Tay thủ trưởng của chị Hường con rô cũng tiếc, con giếc cũng ham. Cán bộ nữ có chồng đi chiến trường không ai dám đụng, thế mà nó ngang nhiên không sợ. Biết chị Hường ham hố quyền lực, nó tận tình bồi dưỡng cán bộ nguồn đêm hôm. Chỉ cần vài tháng là bụng bầu lộ sáng. Để của nợ ấy thì chết cả nút. Chị Hường sẽ bị anh Phong băm vằm; tay thủ trưởng thì đi tù là cái chắc. May mà thời ấy bệnh viện huyện cũng có chỗ nạo phá thai nên với quan hệ của mình tay Dê già kia đã nhờ các mụ đỡ đẻ khét tiếng giải quyết được món quà bất đắc dĩ của Chủa Trời. Tay kia bị giáng chức về làm hiệu trưởng một trường nhỏ; chị Hương xuống dạy cấp một như cũ. tHực là:
“Khổ cho đời chị ước ngôi cao
Để nỗi thân hoa bị chó cào.
Tổng lý, trùm hương đều rắn độc
Bụng bầu vượt mặt, kiếp nốc ao!”
Xong phim.
  Anh Phong ở chiến trường làm đến Đại đội trưởng bị thương chột một mắt. Trong một lần nổi nóng, anh cẩm khúc gỗ đánh tay lính cấp dưỡng già bị chết, anh phải chuyển ra Bắc và cho phục viên. Hai vợ chồng có 4 đứa con, ăn một suất lương giáo viên thập kỷ 80 thế kỷ trước sống dở, chết dở!
Tôi có làm bài thơ về gia cánh của anh chị năm 1980
Đỗ Hoàng
CẢNH NHÀ PHONG HƯỜNG

Mình đang còn điên loạn
Quay cuồng vì gạo cơm
Thế mà cái cảnh sống
Phong  - Hường còn thảm hơn!

Phong đã từng tại ngũ
Đánh Mý tới nhiều năm
Thăng lên hàm Trung úy
Rồi phục viên về làng.

Giá trị người chinh chiến
Còn thua mớ cá tôm
Sao vạch ai nhắc đến?
Khi mình là phế binh.

Phong gầy như cây sậy
Sức lực đã kiệt cùng
Hường đau hơn năm ấy
Đốt cháy cả bạc tiền!

Lương giaó viên sao đủ
Gạo cơm thời buổi này
Con thì có bốn đứa
Chạy ăn bay tóc mai!

Một ngày còn khó sống
Một năm sẽ ra sao
Không gian thì dài rộng
Đời người dạt về đâu?

Thuận Trạch , Mỹ Thủy, Lệ Thủy , Quảng Bình năm 1980
Đ - H


Tạp chi thơ nịnh thối Vua

TẠP CHÍ THƠ IN LUẬN VĂN TÁC GIẢ NGUYỄN PHÚ TRỌNG KHỒNG CÓ LỢI CHO ÔNG
         (Tạp chí Thơ – Hội Nhà văn Việt Nam số 1&2 – 2012)

                                                            Đỗ Hoàng

 
  Thật ra luận văn “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu” của tác giả Nguyễn Phú Trọng (đương kim Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam) Khoa Văn, Đại học Tổng hợp Văn khóa 1964 -1967 cũng bình thường như luận văn của các sinh viên khác trong Khoa. Trong đó có nhiều sinh viên xuất sắc như : Thái Ninh (sau này là Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1991 - 1992), Phan Cung Việt (nhà thơ –nguyên phóng viên báo Tiền Phong), Nguyễn Ngọc Thiện (nhà văn – Tổng biên tập tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam), Ngôn Vĩnh (nhà văn – nguyên Tổng biên tập báo Công an nhân dân)…
  Khóa học có rất nhiều người tài, và có một người duy nhất làm nông dân thứ thiệt. Tôi đã viết bài về khóa học này in trên báo Giáo dục & thời đại cách đây độ hơn mười năm.
   Tố Hữu là nhà thơ lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, điều đó không ai bàn cải. Các nhà thơ, nhà văn như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Trần Dần, Nguyễn Đình Thi…đã viết nhiều bài hay và đúng về thơ Tố Hữu. Xuân Diệu – Tình thương mến trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên – Tố Hữu con chim vụ đường bay nhưng bộ lông cánh rất đẹp…
   Bài luận văn của tác giả Nguyễn Phú Trọng không có phát hiện gì mới về thơ Tố Hữu.
  Bên cạnh sự thành công học tập ca dao, dân ca làm cho thơ Tố Hữu thẩm đầy phong vị ca dao, dân ca, được đại đa số người đọc nằm lòng thuộc thơ ông thì cũng nên chỉ ra những hạn chế khi Tố Hữu sử dụng ca dao, dân ca chưa nhuần nhụy, nhiều chỗ không chính xác hoặc à ơi, vần vè, chung chung…
  “Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…”
 Sao lại nhớ thầm? Chỉ có trai gái yêu nhau mới thầm thương, trộm nhớ. Đây là nhớ mẹ kia mà? Ngay cả nhớ vợ, người ta cũng không nhớ thầm, người ta công khai:
“Tôi nhớ vợ tôi quá
Cho tôi về hai ngày
Nhà tôi ở Mường Lay
Có con sông Nậm Rốm
Ngày kia tôi sẽ đến
Lại cầm súng được ngay
Tôi càng bắn trúng Tây
Vì tay có hơi vợ…"
(Cầm Vĩnh Uy)
 Bài thơ Việt Bắc là bài thơ nói tới cái nhớ thương chung chung.
  Nhớ thương rất nhiều, nhưng nhớ toàn nhớ trời, nhớ đất, lãnh tụ, nhớ rừng, nhớ cây đâu đâu, chứ không có nỗi nhớ nỗi thương cụ thể nào. Cũng như nhiều kẻ nói thương cả trái đất, tinh cầu, nhưng thật ra chẳng thương ai cả!
  Bài thơ Việt Bắc đã có nhà phê bình nói rằng: “ Người ta chỉ cần cốc sữa chứ không cần một chum nước pha cốc sữa vào. Ngửi đâu cũng nghe mang mang mùi sữa nhưng không có sữa thật!” (Đông Hồ)

   Luận văn đã không có phát hiện gì mới mà tác giả lại không chỉ ra mấy câu thơ ca ngợi Stalin của Tố Hữu là không đúng với tình cảm của người Việt của con người. Tác giả còn nâng lên tư tưởng cách mạng dễ hóa ra một nếp nghĩ hồn nhiên.thương mình thương một, thương ông thương mười.
   Ca dao người Việt nói:
“Thương người như thể thương thân
Thấy người hoạn nạn thì thương”
Thế đã nhân ái lắm, bao dung lắm. Nhân ái và bao dung tột đỉnh. Không có gì hơn.
 Vì lý do chính trị, vì nhiều lý do, nhà thơ Tố Hữu quá ca tụng lãnh tụ Stalin:
“...Hôm qua tiếng gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao!
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao ông đã làm sao, mất rồi
Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi ông mất đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười!...”
(Đời đời nhớ ông –Tố Hữu)
  Thơ này các cháu mẫu giáo bé cũng biết phân tích đúng sai!
Thế mà tác giả Nguyễn Phú Trọng viết trong luận văn:
“Hình thức hát ru làm cho nội dung trở thành tất yếu phải có gắn  bó mật thiết với đời sống tình cảm của nhân dân. Nó như những chuyện thường tình – chuyện “cày cấy”, ra chợ bán chè, bán rau, chuyện thương cha, thương mẹ , thương chồng” – từ đời nảo, đời nào trong đời sống và tình cảm của cha ông chúng ta. Nó đã thành máu thịt trong con người chúng ta. Cái cao xa đang trở thành gần gủi, cái mới lạ đang trở thành quen thuộc. Tình cảm gia đinh quyện với tình cảm xã hội, cái riêng hòa vào cái chung, tư tưởng cách mạng dễ hóa ra một nếp nghĩ hồn nhiên:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình , thương một, thương ông thương mười
Yêu con, yêu nước, yêu đời
Yêu bao nhiêu lại thương người bấy nhiêu…” 
Dù ông Phật đi nữa thì cũng thương không thể thương mười như thế được!
  Nếu luận văn của tác giả Nguyễn Phú Trọng chỉ ra những hạn chế trong thơ Tố Hữu  thì chất lượng của luân văn này sẽ nâng cao hơn!
      Còn luận bàn về Staalin thì cách đây hơn 30 năm tờ MOLODOI – Tuổi trẻ của Nga đã trưng cầu độc giả là ai ác nhất thế kỷ XX, người ta đã bình Stalin đứng đầu, Hítle đứng thứ hai!
   Nhà thơ Tố Hữu làm chính trị chọn lãnh tụ để ca ngợi, Nguyễn Phú Trọng làm chính trị chọn Tố Hữu làm luận văn. Sao không chọn Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…?
  Và tác giả Nguyễn Phú Trọng đã thành công khi từ bỏ văn chương nghiên cưú để trở thành nhà chính trị!
  Đại học Tổng hợp Văn là nơi đào tạo ra người nghiên cứu văn học, chứ không đào tạo nhà chính trị. Nhưng khoa văn Đại học Tống hợp lại có nhiều nhà chính trị hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam như Nguyễn Phú Trọng và Thái Ninh…
  Cũng hay là ông Nguyễn Phú Trọng bỏ văn chương để làm chính trị. Nếu theo văn chương nghiên cứu, may mắn lắm ông kế cận được thầy dạy mình là Hà Minh Đức hoặc Phạn Cự  Đệ (Phan Cự Đệ đã từng lùng bắt và trói Giáo sư Trương Tửu thầy dạy mình nộp cho Công an). Nhưng hai thầy giáo và hai nhà phê bình này và các ông Hồ Sỹ Vịnh, Trần Đình Sử, Phong Lê…là những nhà phê bình Mậu dịch quốc doanh tem phiếu thứ thiệt!
  Luận văn đại học của sinh viên dù kém, dù giỏi gì thì cũng chỉ ở trong phạm vi nhà trường để xét tốt nghiệp, chẳng ai bắt bẻ việc này. Đáng phê phán là phê phán Tạp chí Thơ đã in luận văn này và còn viết rất ẩu:
   “ Tiểu luận này đã được tác giả Nguyễn Phú Trọng viết từ hơn bốn mươi năm trước, song có lẽ giờ đây vẫn còn mang ý nghĩa sâu sâu sắc với chúng ta trong tiến trình phát triển và định hướng thơ hôm nay!”
   Đúng là “ Nịnh vua lại hại hơn mười phụ vua!”
 
                                      Hà Nội, ngày 5 tháng 9 năm 2014

                                                         Đ – H
Đỗ Hoàng
Tel: 0913 369 652


Vô lối Nguyễn Quang Thiêu - Hoàng Vũ Thuật


By Đỗ Hoàng
Hoàng Vũ Thuật

Nguyên bản (1)

Viết dưới tượng Êxênhin (2)

Tặng TS Nguyễn Huy Tuấn

hai người đàn ông thổi kèn
vừa thổi vừa nhảy
ngôn thanh tám mươi năm trước
vòng người cuộn thắt

ngực áo tháo tung
Ê xênhin đứng mà đang chạy
dòng chữ bị săn đuổi

thơ làm được gì
thế kỷ của những thế kỷ
lốc xoáy ngang đầu
lới lớp phế hưng gối chồng
nơi bức tường dày một mét

mắt Ê xê nhin đẫm nước
đôi mắt người đang yêu
rừng mọc dưới bờ mi
phập phồng hoa bồ công anh
phập phồng nụ hôn mãn nguyện
trang sách thở trên đá
nhưng sợi dây vẫn chờ lơ lửng
quanh cổ nhà thơ
thít dần thít dần
chầm chậm

tiếng kèn vỡ vụn
máu trào sau nụ hôn
Mátxcơva 13 - 7 - 2006
(1) Nhà thơ Nga ( 1895 - 1915 )
(2) Bài in trên Tạp chí Thơ số 5 - 2006

Dịch:

Viết dưới tượng Ê xê nhin

Hai gã đực thổi kèn
Vừa thổi vừa vọt bước
Lời kêu trăm năm trước
Đau thắt cả hồn ngươi!

Ngực áo tháo tung rời
Ê xê nhin đang chạy
Thi nhân bị phang gậy
Chúng săn lùng thư thi!

Thơ phú có nghĩa gì!
Những thế kỷ lốc xoáy
Hưng thịnh đời là vậy
Dưới chân tượng đá này!

Ê xê nhin chau mày
Ánh mắt tình diễm lệ.
Rừng bờ mi hoang phế
Phập phồng bồ công anh!

Chưa đã nụ hôn thần
Hồn thơ buồn trên đá
Thòng lọng đời chẹt cổ
Như phận số thít dần!

Những tiếng kêu thất thanh
Nụ hôn trào vọt máu!

Hà Nội ngày 18 - 1 - 2008

Nguyên bản (3)

người Di gan

người di gan không buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn

người di gan không đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngã nghiêng phố xá
rạch rúi làm xiếc diễn tuồng

người di gan không khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời

người di gan không mệt
quấn trong tấm chăn khẳn mặn mồ hôi
quần thảo dêm đêm hạnh phúc
nối dài dòng người mải miết

người di gan bị dánh cắp mọi thứ
chỉ còn trái đất thênh thênh
ngôi nhà không mái
trái đất di gan
Mátxcơva 3 -7 - 2006


Dịch:

Người Di gan

Người Di gan quên buồn!
Khi nhảy và khi hát
Nhiệt cuồng và mê thác
Giữa ngày dài đêm thâu!

Người Di gan quên đau!
Khi múa ca nghiêng ngã
Vũ điệu bừng phố xá
Thân làm xiếc diễn tuồng!

Người Di gan thậm buồn!
Tiếng cười thay tiếng khóc
Khi chào mời đổi chác
Ngửa tay ăn xin đời!

Người Di gan thay trời.
Lưng mồ hôi khẳn mặn
Đêm hạnh phúc đầy đặn
Trong quần thảo tình sy!

Người Di gan còn gì ?
Giữa cõi trời cao rộng
Không mái nhà hoang trống
Trái đất người Di gan!

Hà Nội ngày 18 - 1 - 2008
(3) Bài in trên Tạp chí Thơ số 5 - 2006

Nguyên bản(4)

Quạ đen

quà quà quà quà
chéo lòng hồ bông súng chưa nở
cứa mặt tôi đường bay đen
đêm lùi xa ngập ngừng xanh và sáng
không trưng
không sao
không mặt trời
đêm trắng câu thơ Patécnắc hoang hoải

một cánh rtừng bvạch dương
quà quà
mái nhà gỗ
quà quà
một bãi cát
quà quà
một dòng sông long lanh
quà quà
một bờ giậu phủ tuyết tô pôn (5)
quà quà

vắt qua cửa sổ
tầng tám
tách khỏi vỏ trứng
tôi là quạ đen

Phố Tuyết 27 - 6 - 2006
(4) Bài in trên Tạp chí Thơ số 5 - 2006
(5) Cây dương ngày hè nở honhư bông tuyết bay đầy trời. Chú thích của tác giả.

Dịch:

Quạ đen

Quà quà quà quà.
Bông súng hồ chưa nở
Những đường bay đen quạ
Cứa ngang mặt của tôi.
Ngập ngừng đêm xa rồi
Ngập ngừng xanh và sáng
Không sao trăng trời rạng
Đêm trắng cả lời thơ
Patéc nắc buồn thảm!

Rừng bạch dương bơ phờ
Quà quà trên nhà gỗ
Quà quà bãi cát thó
Quà quà sông lanh long
Quà quà tuyết tô pôn

Quà quà vắt cửa sổ
Tận trên cao tám tầng.
Trứng dày vừa tách vỏ
Tôi là loài quạ đen!

Hà Nội ngày 18 - 1 - 2008
21/01/2008 08:45:27 | 3 Comment(s) | 4168 View(s)
By Đỗ Hoàng
Chuyển nói vo rậm lời ( đa ngôn ) của người Việt sang thơ Việt

Lê Văm Ngăn

Nguên bản (1)

Mẹ

Mẹ sinh tôi từ dưới đáy xã hội
Cũng từ dưới đáy xã hội mẹ nuôi tôi khôn lớn lên thành người...

Dịch:

Mẹ sinh con dưới đáy đời
Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay...


Trên sân ga (2)

Quê huơng đang trải mình ngoài cửa sổ phòng đợi
những mái nhà dòng sông nền trời cao những kỷ niệm một thời chung sống
Quê hương ấy chẳng bao lâu nữa tôi sẽ chia lìa

Tôi sẽ đến một nơi chưa bao giờ đến
nơi không cha mẹ anh em
nơi của hạnh phúc thường nhuốm màu cô quạnh
Nơi ấy
Tôi chưa biết thu xếp thế nào về một cảnh đời khác lạ

Tạm biệt những người bạn xin các anh sớm trở về với cuộc vui dưới nền trời sao
Tạm biệt em người đàn bà đã cùng tôi đi qua những chặng đường mưa rét
Sắp tới nếu gặp người đàn ông nào khá giả và yêu em
xin em cứ bỏ tôi để lo xây đắp những ngày hạnh phúc muộn màng

Tạm biệt tạm biệt
rồi ai cũng phải đến lúc ra đi một mình
đi một mình với hình bóng quê hương thân yêu vừa từ giã

(1) Theo Phụ san Thơ ( trích ) - Báo Văn nghệ năm 2003
(2) Bài in trên Tạp chí Thơ số 3 năm 2006

Dịch:

Trên sân ga

Quê hương ngoài cửa phòng ga
Núi non sông suối mái nhà trời cao
Đã thành kỷ niệm thuở nào
Một thời chung sống biết bao ân tình
Quê nhà lưu ảnh trong tim
Chẳng bao lâu nữa chúng mình chia ly!

Đến nơi tôi chửa biết gì
Không cha không mẹ cô dì anh em...
Ấm no buồn lạnh như tiền
Tôi chưa quen được sang hèn xứ xa!

Hỡi nhiều người bạn của ta
Các anh yên ấm vui ca với đời.
Tạm biệt em đã cùng tôi
Đi qua rét mươt trăm nơi vạn đường.
Nếu mà ai đó ngoái thương
Xin em cầm lấy chút hương cuối mùa!

Chia ly buồn mấy cho vừa
Rồi ai cũng phải nắng trưa một mình.
Chỉ quê hương nặng nghĩa tình
Bao yêu thương với bao tình chia ly!

Hà Nội ngày 17 - 1 - 2008

18/01/2008 14:33:00 | 3 Comment(s) | 4194 View(s)
By Đỗ Hoàng
Chuyển nói vo túc là vô lối ( đa ngôn ) và tắc tỵ của người đại gốc Việt ra thơ Việt

Văn Cầm Hải

Nguên văn (1)

Sinh tồn

Thuở naò xanh xao
mặt trăng má  hồng hiện qua sóng mây
cơn đẻ đã đến 
Kim loại nhành hoa
ngôn ngưc thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng Cuội
rì rào thắp sang dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa

(1) Theo blog Van Cam Hai

Dịch:

Sinh tồn

Thuở nào sự sống xanh xao
Mặt trăng ló ánh hồng đào chân mây
Sinh tồn muôn thế là đây
Hoa vàng hoa ngọc đất này nở ra!
Trẻ cười là máu thịt ta
Niềm vui chàng Cuội giữa tòa cung Trăng

Rì rào thắp sáng dương gian
Từ đây sự sống dâng tràn trời mây!
Trẻ cười cho chiếc nôi đầy
Bước đi chập chững những ngày đầu tiên
Nhiệm màu thành thót lời êm
Cõi sinh tồn biết cất lên tiếng người.

Đêm tàn bớt cánh hoa rơi.
Nối tay nhau ánh lửa người xin thêm!

Hà Nội ngày 18 - 1 - 2008
18/01/2008 13:37:58 | 4 Comment(s) | 4220 View(s)
By Đỗ Hoàng
Vi Thùy Linh

Nguyên bản (1)

Giấc mơ đi qua

Em gặp mình
Màu xanh mơ ước
Sao trời phiêu linh
Vòm đêm vỡ sáng
Vầng trăng mê mải tròn đầy...

Đêm rơi qua dải khăn mây
Gió đợi chờ nhau thơ thác
Nảy đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẻ về sắc cỏ thanh miên...

Và bình minh thở phía trời xa
Ngày lên! Giấc mơ tung cánh
Không gian mở bao đường tuyệt đích
Mùa về thức đợi riêng em

(1) Theo Đặc Trưng - Thơ

Dịch:

Cách 1:

Giấc mơ đi qua

Em đã gặp lại mình
Trong giấc mơ có thực
Màu xanh dâng mộng ước
Giữa sao trời phiêu linh
Có vòm đêm lóa sáng
Có vầng trăng tròn in...

Đêm rơi dải khăn mây
Gió đợi chờ thơ nhạc
Yêu đương đang nảy đọt
Trên tay mầm khát khao
Về sắc cỏ xanh màu...

Trời xa bình minh rạng
Ngày lên! Mơ tung cánh
Trời mở đường tuyệt vời

Mùa thức đợi em thôi!

Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008

Cách 2:

Giấc mơ đi qua

Em như gặp lại chính mình
Bao thanh âm bỗng hiện thành giấc mơ
Màu xanh mộng ước đợi chờ
Sao trời mờ nhạt bên bờ phiêu linh
Vòm đêm vỡ sáng thình lình
Vầng trăng tròn trịa dáng hình ngày xưa!

Mây đêm buông xuống bất ngờ.
Thơ reo tiếng nhạc gió chờ đợi nhau.
Tình yêu như phép nhiệm màu
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay.

Cỏ xanh sắc liễu biếc gầy
Bình minh tỏa rạng cho đầy trời xa
Giấc mơ tung cánh tiên nga
Không gian rộng mở đường ra truyệt vời.

Mùa về thức đợi em thôi!

Hà Nội ngày 10 - 9 - 2007

17/01/2008 08:34:50 | 5 Comment(s) | 4102 View(s)
By Đỗ Hoàng
Đại thi sỹ Vương Trọng

Tôi rất bất ngờ và cảm kích khi đại thi sỹ hạ cố đến với Đỗ Hoàng. Khi in bài thơ Nhật thực của nhà thơ Thanh Thảo anh em rất băn khoăn nhưng các anh là những nhà thơ lớn của đất nước không chỉ các nhà thơ lớn mà các tác giả khác Ban biên tập vẫn giữ nguyên tác phẩm của họ. Vì sư huynh có lời Đỗ Hoàng phải làm một việc đáng ra không nên làm. Xin mọi người đại xá!

Nguyên văn bài nhà thơ Vương Trọng viết trên blog của Đỗ Hoàng:"Nghe tin Đỗ tiên sinh có tài dịch thơ Ta ra tiếng Việt tôi muốn phiền tiên sinh một việc tức là dịch hộ một đoạn. Chả là vừa rồi Tạp chí Nhà văn nơi tiên sinh làm việc có đăng bài thơ Nhật thực của một nhà thơ quen biết. Bài thơ được chia làm 10 đoạn đánh số La Mã từ 1 đến 10. Không muốn làm tiên sinh mất quá nhiều thì giờ tôi chỉ dám nhờ tiên sinh dịch hộ phần thứ VIII. Nếu tiên sinh không dịch nổi thì nhờ người đã biên tập bài thơ này dịch hộ vì tôi và nhiều người khác không mảy may hiểu được một tí gì." VT

Thanh Thảo

Nguyên văn (1)

Nhật thực

I

ấn khớp gối
phím đàn
bỏ rơi
những ốc sên nhận đường
bỏ rơi
cái cây vặt từng chiếc lá
im lặng vặt từng âm thanh
chói
âm
chói âm
lỗ đen

nổi trôi ngàn cặp vú
ngân hà

II

gạch bông
trống đồng
lông nhông
con đường
vắt từng giọt
trưa nhật thực những mẹ gà đeo kính
trứng hồng
những bố bò ngáp vặt
chim bay ngập khoảng không

III

tôi mơ phân ngập nhà anh
mai anh giàu trả hai mươi phần trăm
một triệu đô cho giấc mơ tôi
mười ngàn vé dán đầy mặt trời

IV

"anh đừng ăn xin anh đừng ăn"*
mặt trời
mặt trời mù dòng sông mang thai
những trái cây mùa thu ngủ muộn
mùi hương bóng tối
chảy ra
đặc quánh

V

anh chán sáng?
tôi buồn ngủ
buồn ngủ quá
dừng ru nhịp ba
đừng mơn bằng trắc
tôi dạng chân cho các người ngắm
vùng tối đen
thèm tối đen
tối đen
chán sáng

VI

ai định hướng cơn bão
ai chỉ đạo dãi hội tụ nhiệt đới

tự thu mình
một lỗ đen sâu hút

nắng chảy trên mái nhà ký ức

đừng nói
chán rồi

có thể ngay phút này giây này
lại bắt đầu mọi thứ

VII

ốc sên đỉa vắt chuồn chuồn
bay thấp bay cao bay vừa
rối tung tối om
lần mò sờ sao
vuốt má vầng trăng
ôm lưng dải sáng
mười hai lỗ gai
sương dày lá cháy
con đường cực nhọc
vô nghĩa
Vanga Sa ra Ra ma Tô yo ta

VIII

càng cua xe đua liều thua
bài trời
lật sấp: mưa
lật ngửa: xong
long tong nhong nhong
ngọc đại ngại đọc
có cô thì chợ thêm đông
vắng cô thì chợ Đồng Xuân
bốn mùa

IX

xòe tay che vầng nhật
ngày mười bốn tháng mười
nghênh ngang lỗ chó chui
những dòng sông sặc nước

tắt ngay cho chúng biết
lại sáng trưng mấy hồi
đám phê bình vặc diệc
vung vẫy sừng trâu cười


X

nước dâng
biển thấp
ngày những đàn cá mập
diễu hành
những vòng tròn hiện sáng
khoảnh khắc
những giấc mơ vượt thái dương hệ
lỗ đen giữa trán
một ngọn đèn cực mạnh
cây hối hả như người
người đứng lặng như cây
nhìn vào mình
anh chợt thấy một mặt trời bé tý
đong đưa
phía trên lỗ rốn
chầm chậm sông dâng
đám pha-ri-sêu giảng đạo đầy đường
bọ ngựa đá giọt sương
xuyên phá bức tường
con nhện chuyên dệt những ác mộng
là thủ môn vỹ đại nhất
mọi thời

* Phỏng lời một ca khúc Việt nổi tiếng ( chú thích của tác giả)
(1) Bài in trên Tạp chí Nhà văn tháng 12 năm 2007

Dịch:

Nhật thực

I

Ấn vào cái khớp gối
Như ấn vào phím đán
Bỏ rơi sên nhận đường
Bỏ rơi trên cỏ rả
Cây vặt từng chiếc lá
Im lặng vặt âm thanh
Chói tai âm vang đanh
Lỗ đen trong vũ trụ
Nỗi trôi ngàn cặp vú
Trên mê cung Ngân Hà!

II

Gạch bông trống đồng hoa
Lông nhông con đường nhỏ
Vắt từng giọt sương gió
Trưa nhật thực chói lòa
Những mẹ gà đeo kính
Trứng hồng và hồng trứng
Ngáp vặt những bố bò
Chim bay ngập trời mờ!

III

Tôi mơ phân ngập nhà anh
Mai giàu anh trả lãi thành gấp trăm
Mơ tôi giá triệu đô vàng
Đến mười ngàn vé dán tràn trời cao!

IV

Anh ơi! đừng ăn xin
Xin anh đừng ăn đấy
Mặt trời mù mắt vậy
Dòng sông đang mang thai
Những trái cây mùa thu
Trong tiết trời ngủ muộn
Trong tối hương nồng đậm
 Chảy ra đặc quánh này!

V

Anh chán sáng thật hay
Tôi lại buồn ngủ lắm
Dừng ru nhịp ba bốn
Đừng mơn trớn trắc bằng
Tôi dạng chân người nhìn
Thèm tối đen chán sáng!

VI

Ai định hướng cơn bão?
Và ai đang chỉ đạo
Dãi tụ nhiệt đới này
Tự thu mình ai hay?
Một lỗ đen sâu hút
Nắng chảy nhà ký ức
Đừng nói chán lắm thay
Có thể phút giây này
Lại bắt đầu mọi thứ!

VII

Chuồn chuồn vắt sên đỉa...
Bay thấp cao bay vừa
Rối tung tối om mù
Lần mò sờ sao lặn
Đến vuốt mặt vầng trăng
Tới ôm lưng dải sáng
Có mười hai lỗ gai
Sương dày lá cháy loạn
Con đường cực nhọc thay
Tất cả đều vô nghĩa
Van ga Tô yo ta này ...

VIII

Xe đua cũng liều thua
Ván bài trời sấp ngữa
Lật sấp; thì là mưa
Lật ngữa: xong mọi thứ
Chỉ long tong nhong nhong
Mơ ngọc đại ngại học
Có cô chợ thêm đông
Vắng cô chợ đầy đồng
Bốn mùa Đồng Xuân hội!

IX

( Giữ nguyên bản )

Xòe tay che vầng nhật
Ngày mười bốn tháng mười
Nghênh ngang lỗ chó chui
Những dòng sông sặc nước

Tắt ngay cho chúng biết
Lại sáng trưng mấy hồi
Đám phê bình vặc diệc
Vung vẫy sừng trâu cười.

X

Nước đầy mà biển thấp
Ngày những đàn cá mập
Diễu hành trong đại dương
Vòm tròn hiện sáng trưng
Qua khoảnh khắc nhỏ bé
Mơ vượt thái dương hệ
Lỗ đen giữa trán lồi
Một ngọn đèn cực mạnh
Cây hối hả như người
Người im như cây vậy
Nhìn vào mình sẽ thấy
Một mặt trời bé ti
Đung đưa trên lỗ rốn
Chầm chậm sông dâng sáng
Với đám pha-ri-sêu
Đang giảng đạo đầy đường
Bọ ngựa đá giọt sương
Xuyên phá bức tường lửa
Nhện dệt ác mộng nữa.
Thủ môn lớn mọi thời!

Hà Nội ngày 16 tháng 1 năm 2008















16/01/2008 10:50:46 | 7 Comment(s) | 4248 View(s)
By Đỗ Hoàng
Dịch thơ Việt ra thơ Việt

Nguyễn Quang Thiều

Nguyên bản (1)

Trong quán rượu rắn

Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn nó bò qua miệng bình nằm cuộn khoanh đáy chén
Bò nữa đi bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Có kẻ say gào lên những khúc bụi bờ

Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời lảm nhảm với hư vô

Như đá vỡ như vật vờ lau chết
Thơ âm âm thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lưỡi liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du

Bò nữa đi bò nữa đi hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên lên những vệt rắn bò

Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có người say hát lên bằng nọc độc của mình.

(1) Bài rút trong tập Thi Tửu - NXB Hội Nhà văn quý IV năm 2007

Dịch:

Trong quán rượu rắn

Lũ rắn độc bị đem tửu táng
Hồn bò quanh đáy chén miệng bình
Bò nữa đi qua môi bạc trắng
Kẻ say gào giọng rượu thất kinh!

Áo quần mũ tất giày trút bỏ
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất ứ vòm tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời!

Như đá vỡ như vật vờ lau chết
Hồn rên lên tim thon thót nhói lòng
Kinh hoàng chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười khóc mộng du không!

Bò nữa đi! Hỡi những linh hồn chêt!
Nọc độc phun bầm cả đáy vò
Không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò!

Đêm dài rộng chôn vùi trong quán nhỏ.
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng.
Rượu câm lặng chở bao linh hồn rắn.
Hát bằng nọc độc mình kẻ xỉn hú rất hăng!

Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008










15/01/2008 12:40:16 | 5 Comment(s) | 4098 View(s)
By Đỗ Hoàng
Tức sự Quy Nhơn (1)

 Một sáng vừa rồi hai bố con tôi đi làm con trai nói:
- Ba ơi! Giá cả lại tăng chóng mặt!
Tôi cười chua chát:
- Từ khi ba lớn lên đến giờ ngày nào cũng thấy giá cả tăng vùn vụt huống gì con mơi sinh sau năm 1980!
 Quả thật năm 1987 khi tôi lưu lạc tôi phải bán chỉ vàng Mẹ cho phòng thân ở cửa hàng vàng Biên Hòa- Đồng Nai giá 25 000/ chỉ . Cuối năm 2007 giá vàng : 1 7 triệu đồng/ chỉ  vàng tăng giá :  70 lần. kéo theo tất cả đều tăng giá.
 Tôi đọc bài thơ " Tức sự Quy Nhơn" cho nhà văn Văn Vinh làm cùng Tạp chí Nhà văn nghe. Anh sửa cho tôi một chỗ là: 
Loanh quanh giữa chiều ba bữa tết thànhLoanh quanh giữa chiều ba mươi tết thì hay hơn. Tôi đồng ý. Anh nói thêm:  Nếu Tạp chí Nhà văn mình in những bài này chắc là có thêm người đọc. Tôi cười: - Bài này đã in trong tập thơ Khách trọ của tôi do NXB Văn hóa Thông tin ấn hành năm 1992 rồi.


Tức sự Quy Nhơn


Sáng ra ngủ dậy tiền mất giá.
Mười đồng còn lại một đồng thôi
Người ta nhìn nhau mắt trắng dã
Cuộc sống đang mất cả máu người!

Sài Gòn Đà Nẵng Quy Nhơn Huế...
Một buổi vàng tăng giá mấy lần.
Loanh quanh gữa chiều ba mươi tết.
Khổ nghèo vô giá cũng tăng nhanh!

Tàu xe nhà trọ như hang cướp.
Lục súc tranh công chém thẳng tay.
Đời bạc thiếu đi người chân thực.
Cuộc thế đông thêm kiếp ăn mày!

Sáng nay giữa phố Quy Nhơn lạ
Có người mẹ đói chết mất con.
Nghe đến thất thanh ngàn ngọn cỏ.
Hỡi ai lương thiện
                          có còn không?

Quy Nhơn tết năm 1987
(1) Bài in trong tập thơ Khách trọ - NXB Văn hóa - Thông tin năm 1992

Tết buồn (2)

Tết nhất tàu xe không đủ chỗ
Con về lại ngõ phía tre xưa.
Tháng giêng mưa may bay tầm tả
Lạnh giá chùm lên tối giao thừa!

Mẹ gần bảy mươi lưng còng xuống
Sương gió đời người tóc hóa vôi.
Một túp lều tranh rêu mốc xám
Sương trắng rắc trên mọi kiếp người!

Làng ta quá nửa khoai rau thiếu.
Hết ăn ngay giữa vụ mùa vô.
Trẻ con xác xơ già thất thểu
Bao cát quăng thân ngọn gió lùa!

Năm nay thuế má cao hơn trước.
Chợ búa chưa đông đã vãn tàn
Bến vắng đò ngang người vắng bước.
Cây buồn mỗi độ có xuân sang!

Con đi khắp ngã bà con nói:
"Bây giờ sinh kế khó khăn sao.
Kiểm lâm thuế vụ như vương tướng.
Nhân phẩm còn coi đáng mấy hào!"

Thỉnh thoảng trong làng nghe pháo đét.
Mấy nhà danh giá mới mừng xuân.
Còn kẻ nghèo hèn đâu biết tết!
Giao thừa không cháo để thay cơm!

Con về với Mẹ bàn tay trắng.
Giận nỗi đời  mình sống thừa ra.
Cứ để Mẹ hiền thêm gánh nặng.
Con đường nghèo đói hãy con xa!

Và thương làng ta như thương Mẹ.
Bỏ tết ra đi luống ngậm ngùi.
Em chớ trách anh buồn bả thế.
Giao thừa nghe pháo có ai vui!

Thuận Trạch Mỹ Thủy
  tết năm 1982
(2) Bài in trên Báo Văn nghệ Đồng Nai tết năm 1987 và in trong tập thơ Người đẹp khó tìm - NXB Thanh Niên năm 1992











10/01/2008 13:51:44 | 3 Comment(s) | 130 View(s)
By Đỗ Hoàng
Dịch "Vô lối"

Vi Thùy Linh

Nguyên bản:

Âu Cơ (1)

Hoa một loài một bông độc sáng
Giữa những đóa hồng đen dập dìu khắp không gian mịn ướt

Hôm nay lại tiếp tục thói quen cầu ước
Khi ngồi quán trên cao uóng nước đu đủ
Để dồn đủ một đêm tình tự
Trong lòng anh em khai thị thế gian

Phiêu diêu mắt thấy con đường tơ lụa
Phiêu diêu lưỡi chạm đáy mềm Âu Cơ

Ly rượu dan díu mùi đàn bà
Nước mắt không thể ngấm thêm được nữa
Ta tạo dị bản ta chống đỡ
Dan díu men mê man
Mật khẩu nẻ lá môi thâm nhập

Hồi hộp đến cuối đường tơ lụa
Tây Tạng mê ảo cuồng hoa
Trứng nhộn nhịp thụ thai
Âu Cơ rũ váy rũ nghiệt ngã
Lại hứng hứng gió thốc
Thôi miên những cánh cửa chồi răng

Hoa Thùy Linh
Đàn đàn mũi tên bay từ giữa hai đùi
Bắn nát sự cam phận.

Dịch:

Âu Cơ

Một loài hoa một đóa bông
Hoa hồng đen giữa thinh không dập dìu
Bây giờ cầu ước lời yêu
Chút hương cây trái làm xiêu quán ngồi.

Đêm tình tự đã lâu rồi
Lòng anh em mở ra ngoài thế gian
Phiêu diêu tơ lụa đường vàng
Phiêu diêu môi thắm của nàng Âu Cơ

Rượu thơm ngọc nữ đợi chờ
Dâng đầy nước mắt không bờ bến ngăn.
Hóa thân như bướm với tằm
Mê man giữa cõi vô tăm tiếng này!

Môi hồng thêm đậm mầu say
Cuối đường tơ lụa những ngày chờ mong!
Cuồng hoa Tây Tạng mơ mồng
Cõi sinh rộn rịp trứng rồng nở ra

Âu Cơ xiêm áo dứt tà
Hứng con gió thốc lụa là cũng tan!
Thôi miên bao kẻ miên man
Hoa Thùy Linh  nở không tàn ai ơi!

Tên bay bầm dập kiếp người
Để cho bao số phận đời phải cam!

 Hà Nội ngày 10 - 9 - 2007

(1) Theo Đặc Trưng - Thơ




10/01/2008 13:23:35 | 6 Comment(s) | 4278 View(s)
By Đỗ Hoàng
Gửi bạn Nguyễn Nho Khiêm

Đúng bạn ạ bài thơ "20- Phan Đình Phùng" tôi viết năm 1977 ở Đà Nẵng. Cám ơn bạn đã tìm đọc và nhớ rất chính xác. Tôi xin chép lại nguyên văn!

20 - Phan Đình Phùng

Ngược lên ga Đà Nẵng
Rẽ lối bến Hàn Giang.
Nơi lòng tôi gửi gắm
20 - Phan đình Phùng!

Có gì trong tên phố
Chuyện chi ở lầu cao?
Chỉ con đường nhỏ đó
Mà làm tôi nao nao!

Buổi vui cùng bè bạn
Mà ít ai nhận ra.
Tim tôi luôn gửi gắm
Với tâm tình thiết tha!

Ngày xa thanh phố Cảng
Tôi vẫn nhớ y lòng
Lối lên ga Đà Năng
20 - Phan Đình Phùng

Đều này rất giản dị
Bỡi ở đó có người
Là vầng trăng Nhật Lệ.
Mọc thành vầng thơ tôi!

Đà Nẵng 1977

Đỗ Hoàng
Tạp chí Nhà văn
65- Nguyễn Du - Hà Nội
Email: donguyenhn@yahoo.com
Tel: 0913 369 652
09/01/2008 08:34:09 | 2 Comment(s) | 119 View(s)
By Đỗ Hoàng
Dịch thơ Việt ra thơ Việt (3)

Sau khi tôi dịch bài "Mãi viên trà " của anh Thuật anh gọi điện ra cho Sếp tôi bảo Đỗ Hoảng quá cũ nhưng sau đó anh thấy Đỗ Hoàng không có ý gì anh lại viết trên blog của tôi vào ngày 31 tháng 10 năm 2007:
" Không thấy phần thơ dịch thơ Việt ra thơ Việt cũng buồn thật. Đỗ Hoàng dịch rất sát một cách sáng tạo lại mà vẫn giữ được ý tưởng. Thế cũng là tài hoa. Trang mới này có góc mà thiếu cạnh. "Lang thang chiều Huế" là một bài thơ thể hiện tính thơ Đỗ Hoàng chân thật sống chân thật viết. Ngô Minh ở Hà Nội Hoàng Vũ Thuật ở Vũng Tàu. Phương trời nào cũng nhớ thương cả Hoàng ạ!

Hoàng Vũ Thuật

Mãi Viên Trà (1)

Mãi viên trà nếu dịch ra nôm thì là "Mua vườn chè". Tôi đọc bài thơ này không có chỗ nào nói đến mua vườn chè cả. Tôi rất băn khoăn và đề là không dịch được.Nhân chuyến về Nam công tác đi qua Đồng Hới thấy một quán xép đề ba chữ trên. Bạn bè Quảng Bình nói với tôi: Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật có mê người đẹp ở đó mở quán "Mãi viên trà". Thế là tôi mới hiểu ra bài thơ Đề tặng hoặc ghi ở quán" Mãi viên trà". Sao anh Thuật lại làm khó hiểu như thế.

Nguyên bản:

Mãi viên trà

nhiều lúc trò chuyện chiếc bàn con
không muốn thêm ai khác
nhưng nỗi hẫng hụt thường chống lại tôi
như người ta ném đá vào dòng chữ
tách chúng ra khỏi nhau
sự dính kết làm họ bực tức
tuồng bị ném đá

tôi nâng ly trà đặc quánh
tìm một nét nhìn
lâu rồi không gặp
người xa lạ tôi ơi
đôi mắt buồn hơn màu trà khuya sóng sánh

tôi ghi bao điều vụt tới
nhịp thở mái nhà
tiếng kêu con suối khô
dây hoa bò bên triền núi

nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
thiếu nữ mười sau lần trăng đỏ
người mẹ đội nước lên chùa

dính kết vào nhau
linh hồn tôi
dính vào cành lá

3/2006
(1) Bài in trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam năm 2006

Dịch:

Thơ đề tặng quán "Mãi viên trà"

Nhiều lúc bên chiếc bàn con
Chỉ mình không muốn thêm còn có ai
Nỗi hững hụt chống lại rồi
Đá tương vào chữ như người ném đau

Ngỡ là tách chúng rời nhau
Tôi càng tức tối mình đầu dính keo
Tuồng như bị đá quá nhiều
Màu trà đặc quánh tôi liều mấy phin

Mắt căng tìm một nét nhìn
Lâu rồi không gặp người tình tôi ơi!
Mắt buồn trà sánh khuya vơi
Bao điều vụt tới tôi thời kịp ghi

Mái nhà thở nhịp thầm thì
Tiếng kêu khát bỏng lầm lỳ suối khô
Bên triền núi dây hoa bò
Ẩn mình dưới là bồ đề phật thiêng

Một thiếu nữ một mẹ hiền
Tuổi thơ cô lẻ vắt triền đồi sim
Mười sau lần trăng đỏ in
Người mẹ đội nước chân ghim lên chùa

Kết vào nhau tựa thêu thùa
Linh hồn tôi với ngãi bùa cỏ cây!

Hà Nội ngày 7 - 9 - 2006

Hoàng Vũ Thuật

Nguyên bản

Cái chết

Cái chết được thử nghiệm
I rắc
giờ thì Li Băng
máu xoáy sẹo đen lòng biển
những ngày thảm khốc tôi vùi chân bên dòng Nêva

chưa đủ để răn dạy kẻ khác
cuộn tròn mình lo lấy thân xác hơn chăng
ngày anh tôi không về
tôi đứa trẻ chỉ biết hát

thác máu dát đỏ cung điện Mùa đông
máu chảy trên hè phố tôi qua
trước khải hoàn môn tốp lính kín mặt vành khăn trắng
a men
a di đà
tôi giật lùi và chắp tay lên ngực

nhân lọa kéo nhau đi về phía bỗng rộp
đủ hiểu
bằng đầu bằng tim bằng tay
như anh tôi như chú tôi
như thời Pi e đệ nhất
chẳng ai nhận biết bước chân mình

cái chết cao hơn mọi thứ
có thể tin hay không

Dịch:

Cái chết

Cái chết được người đem thử nghiệm
đâu chỉ I Rắc đâu chỉ Li Băng
Máu xoáy cuộn sẹo đen lòng biển
Bên Nhê va tôi vẫn bình chân!

Làm sao để dạy răn kẻ ác?
Khi khư khư lo giữ thân mình.
Ngày người thân xứ tôi thất lạc
Tôi vẫn ca những khúc hát vô tình!

Điện vua Nga máu trào thác đổ
Máu vẫn còn trên phố tôi qua
Trước khải hoàn lính mặt tang trắng xóa
Tôi chắp tay: a men a di đà!

Nhân loại vẫn kéo nhau về phía lửa
Cuồn cuộn theo thân xác linh hồn
Như người Việt người Nga một thuở
Niềm tin mất. sự sống không còn!

Cái chết có cao hơn mọi thứ?
Hỡi người đời có thể tin không?

Hà Nội ngày 28 - 8 - 2007
(1) Bài in trên Tạp chí Nhà văn tháng 11/ 2006

Nguyên bản:

Hoàng An (1)

Ngấn sóng vòng tay biển để lại trên vai
để lại bóng hình thanh tân của gió
vụt hiện tan chảy mất hút
trải dài chữ S bãi cát Hoàng An

chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa không người tuốt chảy gặt hái
anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối hạ

xứ sở hiếm mặt trời
chỉ thấy nụ cười kéo anh qua ngã tư đường
ánh nắng ló từ khuôn ngực
từ âm thanh tiếng
Việt đa sắc
từ vầng trán đóng đinh bật máu môi anh

đó là ảo ảnh phía sau hiện thực

giờ thì anh trồng thêm gốc cây
thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định

rồi con sóng tiếp xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối

Dịch:

Bãi cát Hoàng An

Ngấn sóng vòng tay biển để lại trên vai
Để lại bóng hình thanh tân của gió
Khi tan chảy khi hiện về soi tỏ
Trải dài theo chữ S bãi Hoàng An

Buổi vào mùa thiếu người gặt hái
Cánh đồng như thân thể trắng trinh em
Muốn đem về cơn mưa hiền êm ả
Dịu vết thương nắng hạ ngày đêm!

Nhiều xứ sở hiếm hoi ánh nắng
Nụ cười xinh níu anh dặm đường
Những khuôn ngực như bình minh tỏa rạng
Với giọng quê nhà rất đổi thân thương!

Đỉnh vầng trán môi anh bật máu
Ảo ảnh sau hiện thực vô hình
Gốc bạch dương anh trồng trong tuyết bão
Chưa an lành giông gió vẫn bất bình

Kiếp anh - con sóng đời xô đẩy
Khi mình là hạt cát nhỏ nhoi
Những con sóng siêu hình lau mặt cũ
Chén rượu buồn chặng cuối đẫm làn môi!

Huế ngày 28 - 8 - 2007
(
1) Bài in trên Tạp chí Nhà văn tháng 11/2006

Xanh - Pêtécbua (1)

Nến cháy trong cung điện Mùa Đông
thời nến cháy
tôi tắm ánh sáng ba trăm năm lẻ
lùng săn dấu xưa như lùng tìm cổ vật
triệu tảng đá đóng băng vuông vắn chảy về
ngạo nghễ pháo dài Pêtrô Páplốp

chiếc mũ người xà ích trùm kín lọn tóc nâu
gương mặt tuy líp
con đường dấu ngã
con đường dấu hỏi
con đường không dấu
lốc cốc vó ngựa đổ vào đêm

Xanh Pê téc bua quả chuông
cộng hưởng
giọng vàng
rung trên vòm mộ
trên đường cong thân thể
trên ngực thần tình yêu
trên thác gió

sông Nê va kim đồng hồ nước chẻ đôi
nửa ngược dòng quá khứ
nơi chiếc mỏ neo kéo biển về rừng
nửa khởi nguyên con tàu
chui ra từ chiếc cầu mở
Xanh - Pê téc bua ổ bánh mì đen
tôi cầm lên cánh đồng mạch thơm

Dịch:

Xanh Pê téc bua

Nến cháy trong điện vua Nga
Cái thời nến cháy máu ra ngập tràn
Tắm trong ánh nến nghìn năm
Dấu xưa tìm giống lùng săn ngọc vàng.

Trôi về triệu triệu tảng băng
Pê trô Páp lốp hiên ngang pháo đài
Người xà ích tóc nâu dài
Gương mặt tuylíp đời trai héo mòn.

Con đường dấu hỏi dấu không
Lóc cóc vó ngựa lòng thòng vào đêm.
Pêtéc bua quả chuông rền
Tiếng kêu cộng hưởng vang lên giọng vàng.

Chuyển rung vòm mộ bất an
Đường cong thân thể ngực tràn tình yêu.
Cả trên tháp gió phiêu iêu
Đồng hồ nước chảy sáng chiều Nê va!

Ngược dòng quá khứ không xa
Mỏ neo kéo biển cả ra rừng hường
Khởi nguồn tàu vượt đại dương
Là từ cầu mở con đường đi qua.

Pê téc bua - bánh mì Nga
Tôi nâng cánh lúa mạch hoa thơm nồng!

Huế ngày 28 - 8 - 2007
(10 Bài in trên Tạp chí Nhà văn tháng 11 - 2006