GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG THƠ VIỆT
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Dịch Vô lối Trúc Thông
Đỗ Hoàng
TRÚC THÔNG VÔ LÔI
Ltg: Nhà thơ Tiến sỹ Văn chươg Trần Quang Đạo, nhà
thơ Tiến sỹ Triết học Nguyễn Linh Khiếu nói với tôi: “ Vừa qua báo chí, các nhà
phê bình tang bốc Trúc Thông lên quá, chúng mình không có mắc mớ gì với ông, ông
là người tốt nhưng thơ làm mới của ông hỏng hết, không được cái gì, Đỗ Hoàng
nên viết một bài phản biện.
Tôi đáp: “Tôi cũng vậy, anh Thông tốt với mọi người,
nhưng thơ làm mới của anh như ma - nơ – canh (tượng gỗ ở các cửa hàng may mặc )!
Tôi đã viết bài “Đau chữ không thể thành thi sỹ” và dịch “thơ Vô lối” của Trúc Thông
ra thơ Việt và dịch thơ Vô lối của những kẻ nhân danh cách tân làm hỏng
thơ Việt”.
Hai Tiến sỹ bảo tiếp: - Cứ viết nhiều vào!
Tôi : Oke! Được ngay!
Văn bản:
Trúc Thông
Nguyên bản:
PHẢI LÒNG RỪNG NÚI (1)
Kính
tặng nhà giáo Đỗ Đắc Oánh
Bên dòng sông thời gian
Tóc thầy ngả bạc
Thày gieo trong trái tim học trò
Hơn bốn mươi năm qua
Một mối tình tận tụy
Vượt các giáo trình
Thày dạy môn yêu thương
Cả đời người sống với vùng cao
Vẫn không quen rượu
Nhưng thay say say
Men tình người
Ôi những bản không thể còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được thế…
Ít dịp xuôi thành phố
Thày mong mong về lại những chiếng xưa
Cơm bày ra gà đã gáy canh ba
Tâm sự bốn mươi năm tới sáng.
Ngắm tóc nhau ngả bạc
Bên màu xanh trong suốt của rừng
(Rút trong tập Vưà đi vừa ở NHXB Hội Nhà văn 2005)
(1) Bài
in trên báo Văn Nghệ số 46 ngày
14-11-2015)
Lới bình:
Đây là một bài Vô lối nhạt nhẽo, sơ sài, nội
dung không có gì. Ca ngợi một ông giáo cắm bản mà chả thấy toát lên hình ảnh
nào cảm động, tình cảm nào sâu sắc. Cách lập luận, cách làm mới ra vẻ cách tân
càng làm cho bài viết như một thứ của giả, gượng gạo, khô khan, đầy lỗi trong
cách cảm, cách nghĩ và dùng từ!
Trước hết là cách đặt tựa đề.”Phải lòng rừng
núi” Nó hỏng từ câu này. Hai từ “Rừng
núi” thì có thể chọn một từ “Núi” là đủ
nghĩa. Còn phải lòng thì người Việt hay dùng cho trái gái yêu nhau. Cô này phải
lòng anh kia, anh kia phải lòng ả nọ.
Thày giáo đến dạy chữ là đem phần trí tuệ thiêng liêng đến cho núi. Tình
cảm ấy nằm ở phần kính trọng, cao hơn tình cảm trai gái phải lòng nhau. Có thể
thày là con của núi cũng không thể nói núi phải lòng thày hay thày phải lòng
núi được, dù sau này thày có thể nên duyên với gái núi.
“Bên dòng sông thời gian”, nói cái thực bằng cái ảo, dùng một lần có thể
hay, dùng một người có thể được; nhưng dùng nhiều lần, nhiều người dùng
như “đi bên mùa thu”, “gấp đêm làm gối
cho ngày rạng ra”, “chạm môi Thăng Long nghìn tuổi”, “đẻo tư tương Nit sơ làm
guốc mộc”… thì gượng gạo, kém thẩm mỹ! Mà kiểu nói này không mới, người ta đã
dung ngàn năm nay, như: “Trâu Yak mang trên lưng mùa thu” (Tạng thư).
Nhiều người khen chữ gieo, khen Trúc Thông đã
đem cái từ chỉ dùng trong nông nghiệp phân gio vào được thơ. Thực ra là hỏng,
nó không có gì hay ho ở việc dùng gieo vào con tim học trò. Con tim phải thắp
lên, thổi bùng lên, chớp lên, hình ảnh ấy mới lộng lẫy như hình ảnh Đanko lấy
tìm mình thắp lửa thổi bùng lên cho mọi người bước qua đầm lầy!. Còn “gieo” thì
“gieo mầm” mùa xuân là quá được rồi. Và cũng nên cho chữ “gieo” này dừng lại ở
phần phân gio nông nghiệp.
“Vượt các
giáo trình
Thày dạy
môn yêu thương”
Đây là kiểu nói hàm hồ,
nói lấy được. Kiểu nói của người không hiểu nghề dạy học! Chưa một người thày
nào, cô nào giỏi đến mức dạy hết giáo trình dạy học, dù giáo trình dạy học từ
thời phong kiến để lại. “Thày dạy môn yêu thương” tưởng là kiểu nói làm mới
nhưng nó cũ rich và phản cảm. Kiểu nói của đứa trẻ lên ba chưa đi học. Không có
môn nào trong các giáo trình của xưa và nay không là môn yêu thương.
Văn ngày xưa cha ông dạy:
“Thương người như thể
thương thân
Thấy người hoạn nạn thì
thương”…
…”Bên ướt mẹ nằm, bên ráo
con lăn
Lấy chi đền nỗi khó khăn
Thôi thôi ta lên non gánh
đá về xây lăng phụng thờ!”
…”Mụ cài chài (ngư dân)
thả con cá long còng cong,
Thương anh đứt tấm ruột,
tấm lòng ơi anh ơi!”...
…”Một ngàn ba mươi vạn thằng
Tây
Thảm thương cái mụ ăn mày
cái xách cái bị loọng toòng, tọ tè ti te tọ tọ tè ti ti tè!
Và nay:
“Yêu tổ quốc, yêu đồng
bào
Học tập tốt
Lao động tốt”
(Hồ Chí Minh)
Đó không phải môn yêu
thương là gì?
Đấy là chưa kể
các môn Luân lý, Đạo đức, Công dân, Chính trị. Ngay môn toán chỉ là con số
nhưng cũng tràn đầy yêu thương:
“Mắt em nhìn ngấp nghé
góc anpha”
“Bắt được quả tang, sin nằm
trên cos”
Hay: “Bên nhà nghe tiếng
nói dân công
Thảo luận cùng nhau việc
gánh gồng
Một người hai gánh thừa một
gánh
Hai người sáu gánh bốn người
không.
Chiến trường bộ đội đang
cần đạn
Tính số dân công, số gánh
gồng?”
Câu tiếp:
“Cả đời người sống ở vùng
cao
Vẫn không quen rượu…”
Câu này Trúc Thông muốn
khen ông giáo cắm bản ở với dân vùng cao đầy rượu chè như ông vẫn “trong sạch”
không nhuốm hơi men. Tưởng thế là đạo đức lắm, thanh cao lắm. Nhưng nhầm. Phàm
con người, ngay cả con vật, thần kinh tốt, tố chất thông minh, sức khỏe hoàn hảo
đều rất thích chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá, hê rô in, đực cái…). Những
bậc kiệt hiệt họ biết dùng và biết dừng. Chỉ những anh lại giống, ẻo lả, nửa
đàn ông, nửa đàn bà mới kiêng các món trên. Ngay cả phụ nữ khỏe mạnh, thông
minh cũng xài được các thứ ấy. Ông giáo cắm bản của Trúc Thông chắc là pede
Thái Lan (!). Giả dối hết mực, sượng sạo hết mực, mậu dịch hết mức!
Hai câu này
sai không thể chữa được:
“Ở những bản không thể
còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được
thế”
Trúc Thông chưa đến bản
Là Si của người La Hủ trên biên giới Việt – Trung thuộc địa phận huyện Mường
Tè, Lai Châu. Bản không có thày đến dạy như bản của Trúc Thông. Ngườiì ta ở
trong túp tranh lá vàng và ăn rễ cây, giun đất, chuột sóc làm gì có trường, có
lớp. Bản Là Si sẽ nghèo hơn bản trên là cái cái chắc! nói lấy như thế nên cho
điểm không về chỗ!
Mà bản nghèo ăn không đủ thì giúp ai? Làm sao
tốt hơn bà mẹ người Hy Lạp suốt tuần, suốt tháng nấu cơm, đưa thực phẩm, thức
ăn, lều bạt cho người tỵ nạn bơi qua Đại Trung Hải thoát vòng I S vừa qua!
Trong
bài câu nào cũng sượng sùng lên gân, sai bét về mặt tâm lý tình cảm. Nhiều câu
sáo rỗng dở hơn cả câu văn xuôi:
“Nhưng thày say say
Men tình người”
Có nhiều câu quá dở:
“Một mối tình tận tụy”
“Phải lòng rừng
núi” là một bài thơ Vô lối của Trúc Thông không có giá trị gì,thơ Vô lối của
Trúc Thông không có giá trị gì. Ông phải
chuốc lấy sự thất bại thảm hại trong đời thơ của mình!
Như:
“Vỹ nhân công sức còn lại
Càn khôn muôn thế rộng
dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời
trai!
(Đỗ Hoàng)
Đời thơ Trúc Thông thực
là tay trắng!
Dịch ra thơ Việt:
Đỗ
Hoàng
VỚI
NÚI
Theo
dòng sông thời gian
Tóc
thày giờ ngả bạc
Thày
là người gieo hạt
Mầm
xanh tim học trò!
Hơn
bốn mươi năm qua
Yêu
ghề vẫn nồng mặn
Thức
cùng trang giáo án
Lời
thày, lời yêu thương!
Cả
đời gắn vùng cao
Tình
nồng như ché rượu
Những
cái say muốn níu
Dào
dạt men tình người.
Ôi
những bản tận nghèo
Ai
dám so lòng tốt?
Phố
phường thày xuống ít
Chỉ
mong về chiềng xưa.
Và
cơm trong tiếng gà
Chuyện
một đời tới sáng
Ngắm
tóc nhau bạc trắng
Bên
màu xanh núi rừng!
Hà
Nội ngày 27 – 12 – 2015
Đ
- H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét