HAI ĐOẠN KÊT HAI TÁC PHẨM ÂM BA RẤT VANG VỌNG
1- ĐOẠN
TRƯỜNG TÂN THANH (TRUYỆN KIỀU) – NGUYỄN DU
Đoạn Kết
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
3245- Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài, chữ mệnh dồi dào cả
hai
Có tài mà cậy chi tài
Chứ tài đi với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
3250- Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Lời quê chắp nhặt dông dài
3254 - Mua vui cũng được một vài trống canh!
2- KIỀU THƠ – ĐỖ HOÀNG
Đoạn kết
Ngẫm ra ân oán tại người. (808)
Hiền tâm, ác bá cũng
nơi lòng mình.
Đã rằng vì nghĩa, vì
tình.
Sá chi cái lũ yêu tinh
hung tàn.
6105- Xưa nay dưới chốn trần gian,
Núi xương, sông máu non
ngàn trắng phơi.
Mệnh tài đầy đoạ kiếp
người. (809)
Tơ duyên nghiệp chướng
nợ đời phải mang.
Cửu tuyền còn chuyến đò
ngang. (810)
6110- Nợ chưa trả hết sao sang bến chiều.
Càn khôn hoang lạnh cô
liêu.
Càng gây oan trái, càng
nhiều tội danh.
Cõi trần mờ mịt mong
manh,
Con người, con ngợm cố
giành giật nhau.
6115- Nhãn tiền trông thấy mà đau!
Đời nay đã vậy, muôn
sau thế nào?
Lại mơ có những anh
hào.
Hùng tài đại lược, chí
cao phi thường.
Cho Kiều không phải đoạn
trường.
6120- Cho bao cây cỏ bên đường bình yên.
Chỉ còn tìm đến cõi
tiên. (811)
Đỗ Hoàng thử hỏi có nên
dịch Kiều?
Hà Nội, 6 giờ 37 phút ngày 17 tháng 5 năm 2009
Đ-H
(811) Tìm đến cõi tiên: Cõi cực lạc mà trên dương gian
không có.
Tự Đức có bài thơ bằng chữ Nôm đề
ở Khiêm Lăng:
“Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà
ghê,
Sống gửi rồi ra thác lại về.
Khôn dại cùng chung ba tấc dất,
Giàu sang chưa chín một nồi
kê.
Trông vời trước mắt mây tan
tác,
Đày đoạ sau thân núi nặng
nê.
Thử hỏi đến tiên, tiên chẳng
thấy.
Gượng làm một chút thử mà
nghe!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét